I. Thông báo thời hạn nộp tờ khai thuế trong kỳ kê khai tháng 2/2025 và kỳ kê khai năm
NKS xin thông báo hạn nộp hồ sơ khai thuế trong kỳ kê khai Tháng 2/2025 và kỳ kê khai Năm 2024 như sau:
Hồ sơ khai thuế của kỳ kê khai Tháng 2/2025: Hết hạn nộp vào Thứ Năm, ngày 20/03/2025.
Hồ sơ khai thuế của kỳ kê khai Năm 2024: Hết hạn nộp vào Thứ Hai, ngày 31/03/2025.
NKS lưu ý Quý Khách hàng nên kê khai, nộp tờ khai sớm trước thời gian hết hạn ít nhất từ 1 đến 2 ngày để tránh việc quá tải, không gửi được tờ khai.
II. Một số điểm mới quy định về quản lý thuế đối với doanh nghiệp có giao dịch liên kết
Chính phủ ban hành Nghị định số 20/2025/NĐ-CP ngày 10/02/2025 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 132/2020/NĐ-CP ngày 05/11/2020 quy định về quản lý thuế đối với doanh nghiệp có giao dịch liên kết. Nghị định này có hiệu lực từ ngày 27/03/2025 và áp dụng từ kỳ tính thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2024.
Theo đó, Nghị định số 20/2025/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung điểm d, k và bổ sung điểm m khoản 2 Điều 5 Nghị định số 132/2020/NĐ-CP về các bên có quan hệ liên kết. Cụ thể:
- Thứ nhất, tại điểm d khoản 2 Điều 5 Nghị định số 132/2020/NĐ-CP quy định các bên liên kết là: “d) Một doanh nghiệp bảo lãnh hoặc cho một doanh nghiệp khác vay vốn dưới bất kỳ hình thức nào (bao gồm cả các khoản vay từ bên thứ ba được đảm bảo từ nguồn tài chính của bên liên kết và các giao dịch tài chính có bản chất tương tự) với điều kiện khoản vốn vay ít nhất bằng 25% vốn góp của chủ sở hữu của doanh nghiệp đi vay và chiếm trên 50% tổng giá trị các khoản nợ trung và dài hạn của doanh nghiệp đi vay.” Nội dung trên được sửa tại Nghị định số 20/2025/NĐ-CP như sau: “d) Một doanh nghiệp bảo lãnh hoặc cho một doanh nghiệp khác vay vốn dưới bất kỳ hình thức nào (bao gồm cả các khoản vay từ bên thứ ba được đảm bảo từ nguồn tài chính của bên liên kết và các giao dịch tài chính có bản chất tương tự) với điều kiện tổng dư nợ các khoản vốn vay của doanh nghiệp đi vay với doanh nghiệp cho vay hoặc bảo lãnh ít nhất bằng 25% vốn góp của chủ sở hữu của doanh nghiệp đi vay và chiếm trên 50% tổng dư nợ tất cả các khoản nợ trung và dài hạn của doanh nghiệp đi vay.” Quy định tại điểm d nêu trên không áp dụng với các trường hợp sau:
- d.1) Bên bảo lãnh hoặc cho vay là các tổ chức kinh tế hoạt động theo quy định của Luật các tổ chức tín dụng 2024 không tham gia trực tiếp, gián tiếp điều hành, kiểm soát, góp vốn, đầu tư vào doanh nghiệp đi vay hoặc doanh nghiệp được bảo lãnh theo quy định tại các điểm a,c,đ,e,g,k,l và m khoản này.
- d.2) Bên bảo lãnh hoặc cho vay là các tổ chức kinh tế hoạt động theo quy định của Luật các tổ chức tín dụng và doanh nghiệp đi vay hoặc được bảo lãnh không trực tiếp, gián tiếp cùng chịu sự điều hành, kiểm soát, góp vốn, đầu tư của một bên khác theo quy định tại các điểm b, e và i khoản này.
- Thứ hai, tại điểm k khoản 2 Điều 5 Nghị định số 132/2020/NĐ-CP quy định các bên liên kết “k) Các trường hợp khác trong đó doanh nghiệp chịu sự điều hành, kiểm soát, quyết định trên thực tế đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp kia.” Nội dung trên được sửa tại Nghị định số 20/2025/NĐ-CP như sau: “k) Các trường hợp khác trong đó doanh nghiệp (bao gồm cả chi nhánh hạch toán độc lập thực hiện kê khai, nộp thuế thu nhập doanh nghiệp) chịu sự điều hành, kiểm soát, quyết định trên thực tế đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp kia.”
- Thứ ba, bổ sung trường hợp các bên liên kết. Nghị định số 20/2025/NĐ-CP cũng bổ sung điểm m khoản 2 Điều 5 Nghị định số 132/2020/NĐ-CP quy định các bên liên kết là: “m) Tổ chức tín dụng với Công ty con hoặc với Công ty kiểm soát hoặc với Công ty liên kết của tổ chức tín dụng theo quy định tại Luật Các tổ chức tín dụng và các văn bản sửa đổi, bổ sung hoặc thay thế (nếu có).”
- Thứ tư, bổ sung trách nhiệm của Ngân hàng Nhà nước: Khoản 2 Điều 21 Nghị định số 132/2020/NĐ-CP quy định Ngân hàng Nhà nước trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm phối hợp cung cấp thông tin, số liệu về các khoản vay, trả nợ nước ngoài của từng doanh nghiệp cụ thể có giao dịch liên kết trên cơ sở danh sách do cơ quan thuế yêu cầu, bao gồm dữ liệu về kim ngạch khoản vay, lãi suất, kỳ trả lãi, trả gốc, thực tế rút vốn, trả nợ (gốc, lãi) và các thông tin liên quan khác (nếu có).
III. Ngành Thuế triển khai hoàn thuế thu nhập cá nhân tự động
Tiếp tục đẩy nhanh tiến trình thực hiện số hóa trong công tác quản lý thuế, Tổng cục Thuế đã ban hành Quyết định số 108/QĐ-TCT ngày 24/01/2025 về quy trình hoàn thuế thu nhập cá nhân tự động (Quyết định 108). Quy trình này có hiệu lực thi hành kể từ ngày ký và được áp dụng đối với cơ quan thuế các cấp trên toàn quốc.
Theo đó, quy trình hoàn thuế thu nhập cá nhân (TNCN) tự động quy định trình tự, thủ tục các bước để cơ quan thuế thực hiện giải quyết hồ sơ hoàn thuế TNCN của cá nhân trực tiếp quyết toán thuế có đề nghị hoàn trên tờ khai quyết toán thuế TNCN. Nội dung quy trình hoàn thuế TNCN tự động hướng dẫn các bước: (1) tạo và tiếp nhận tờ khai quyết toán thuế TNCN gợi ý có đề nghị hoàn của người nộp thuế (NNT); (2) giải quyết hoàn thuế TNCN tự động; (3) kiểm soát sau hoàn thuế TNCN.
Một số điểm cơ bản NNT cần đặc biệt lưu ý trong quá trình thực hiện các bước của Quy trình
A . Tạo và tiếp nhận tờ khai quyết toán thuế TNCN: Tại Điều 4. Tạo và tiếp nhận Tờ khai quyết toán thuế TNCN gợi ý có đề nghị hoàn của NNT:
- Thứ nhất, về việc tạo Tờ khai quyết toán thuế TNCN gợi ý: Từ cơ sở dữ liệu kê khai của tổ chức trả thu nhập và của cá nhân, dữ liệu đăng ký thuế và đăng ký người phụ thuộc, dữ liệu tổng quan về nghĩa vụ thuế, các khoản nợ của NNT trên toàn quốc, hệ thống ứng dụng công nghệ thông tin (CNTT) của ngành Thuế tự động tổng hợp dữ liệu đối với các chỉ tiêu trên tờ khai quyết toán thuế TNCN để xác định nghĩa vụ kê khai của NNT và tạo Tờ khai quyết toán thuế TNCN gợi ý đối với NNT là cá nhân trực tiếp quyết toán thuế TNCN. Việc tổng hợp dữ liệu và tạo lập Tờ khai gợi ý được hệ thống ứng dụng CNTT ngành Thuế tự động thực hiện ngay sau thời hạn nộp tờ khai quyết toán thuế TNCN của tổ chức trả thu nhập. NNT là cá nhân sử dụng ứng dụng eTax Mobile, ứng dụng Thuế điện tử dành cho cá nhân của Tổng cục Thuế để kiểm tra thông tin trên Tờ khai quyết toán thuế TNCN gợi ý do hệ thống ứng dụng CNTT của ngành Thuế tự động tạo lập. Trường hợp NNT đồng ý với thông tin được gợi ý trên Tờ khai quyết toán thuế TNCN gợi ý, NNT xác nhận và nộp hồ sơ quyết toán theo quy định trên ứng dụng. Trường hợp NNT không đồng ý với thông tin được gợi ý trên Tờ khai quyết toán thuế TNCN gợi ý, NNT sửa lại thông tin tại các chỉ tiêu tương ứng, bổ sung lý do chênh lệch với số cơ quan thuế gợi ý và nộp hồ sơ quyết toán kèm theo tài liệu chứng minh theo quy định.
- Thứ hai, về việc tiếp nhận Tờ khai quyết toán thuế TNCN gợi ý có đề nghị hoàn trả của NNT: Hệ thống thông tin giải quyết thủ tục hành chính tự động tạo và gửi Thông báo về việc tiếp nhận hồ sơ khai thuế điện tử, Thông báo về việc tiếp nhận hồ sơ đề nghị hoàn thuế (theo mẫu số 01-1/TB-TĐT ban hành kèm theo Thông tư 19/2021/TT-BTC của Bộ Tài chính), cho NNT ngay sau khi nhận được hồ sơ quyết toán thuế TNCN có chỉ tiêu “Số thuế hoàn trả cho NNT”. Ngay sau khi gửi Thông báo về việc tiếp nhận hồ sơ đề nghị hoàn thuế cho NNT, phân hệ hoàn thuế tự động tạo hồ sơ đề nghị hoàn thuế.
- Thứ ba, đối với hồ sơ quyết toán thuế TNCN có đề nghị hoàn trả của NNT: được nộp bằng phương thức khác với quy định tại khoản 1 Điều 4 Quy trình hoàn thuế TNCN tự động ban hành kèm theo Quyết định 108/QĐ-TCT 2025, hệ thống thông tin giải quyết thủ tục hành chính và bộ phận tiếp nhận và trả kết quả thực hiện tiếp nhận, chấp nhận tờ khai và xử lý hồ sơ khai thuế theo quy định tại Quy trình quản lý khai thuế, nộp thuế và quản lý nghĩa vụ thuế của NNT. Sau đó, hệ thống thông tin giải quyết thủ tục hành chính thực hiện tự động tiếp nhận hồ sơ hoàn thuế và phân hệ hoàn thuế tự động tạo hồ sơ đề nghị hoàn thuế theo quy định tại khoản 2 Điều 4 Quy trình hoàn thuế TNCN tự động ban hành kèm theo Quyết định 108/QĐ-TCT 2025.
B . Hồ sơ đủ điều kiện được xử lý tự động: Tại Điều 5. Giải quyết hoàn thuế TNCN tự động quy định: Phân hệ hoàn thuế TNCN sẽ tự động kiểm tra và xác định hồ sơ đủ điều kiện được xử lý tự động khi đáp ứng các điều kiện. Cụ thể:
- Thứ nhất, tại thời điểm giải quyết hồ sơ hoàn thuế TNCN của người nộp thuế, tổ chức trả thu nhập đã hoàn thành nghĩa vụ nộp thay tiền thuế TNCN đã khấu trừ hoặc tổng tiền thuế TNCN người nộp thuế là cá nhân đã nộp đủ vào NSNN tại kỳ quyết toán người nộp thuế có đề nghị hoàn thuế.
- Thứ hai, hồ sơ hoàn thuế TNCN có chỉ tiêu “Tổng thu nhập chịu thuế” khớp đúng với số liệu tổng hợp trong kỳ quyết toán thuế theo cơ sở dữ liệu quản lý thuế của ngành Thuế tại thời điểm giải quyết hồ sơ và có chỉ tiêu “Tổng số thuế đề nghị hoàn trả” nhỏ hơn hoặc bằng số liệu tổng hợp trong kỳ quyết toán thuế theo cơ sở dữ liệu quản lý thuế của ngành Thuế tại thời điểm giải quyết hồ sơ.
- Thứ ba, thông tin tài khoản nhận tiền hoàn trả của người nộp thuế được xác minh và liên kết với cơ sở dữ liệu quản lý thuế của ngành Thuế.
Trường hợp hồ sơ hoàn thuế TNCN của người nộp thuế đáp ứng đủ các điều kiện, phân hệ hoàn thuế TNCN tự động tạo đề xuất hoàn thuế, lập Quyết định hoàn thuế (hoặc Quyết định hoàn kiêm bù trừ thu NSNN) và Lệnh hoàn trả khoản thu NSNN (hoặc Lệnh hoàn trả kiêm bù trừ khoản thu NSNN) để chuyển Thủ trưởng cơ quan thuế ký điện tử. Những công việc nêu trên do hệ thống ứng dụng CNTT của ngành Thuế tự động thực hiện kể từ khi gửi Thông báo về việc tiếp nhận hồ sơ đề nghị hoàn thuế cho NNT.
Trường hợp xác định hồ sơ hoàn thuế không thuộc đối tượng và trường hợp được hoàn thuế, bộ phận giải quyết hồ sơ hoàn thuế dự thảo Thông báo về việc hồ sơ chưa đủ điều kiện hoàn thuế không được hoàn thuế (Mẫu số 04/TB-HT ban hành kèm theo Thông tư số 80/2021/TT-BTC) trên TMS, trình Thủ trưởng cơ quan thuế ký ban hành, gửi NNT.
IV. Bộ Tài chính không đề xuất đánh thuế thu nhập cá nhân với lãi tiền gửi tiết kiệm
Bộ Tài chính đã gửi hồ sơ đề nghị xây dựng dự án Luật Thuế TNCN (thay thế) mới nhất để xin ý kiến từ các bộ, ngành, địa phương và người dân. Trong đó, Bộ đề xuất tiếp tục giữ nguyên quy định miễn thuế TNCN đối với lãi tiền gửi tiết kiệm, giống như quy định hiện hành. Điều này nhằm khuyến khích cá nhân gửi tiền tiết kiệm qua ngân hàng, là một kênh huy động vốn quan trọng cho nền kinh tế, đồng thời hỗ trợ các đối tượng không có khả năng lao động như người về hưu và người tàn tật.
Vào ngày 22/11/2024, Bộ Tài chính đã phát đi Công văn số 12738/BTC-CST để lấy ý kiến rộng rãi từ các tổ chức và cá nhân có liên quan. Sau khi tổng hợp và giải trình các ý kiến, vào ngày 22/1/2025, Bộ đã gửi Công văn số 930/BTC-CST xin ý kiến thẩm định từ Bộ Tư pháp. Ngày 12/2/2025, Bộ Tư pháp đã tổ chức họp thẩm định đề nghị này. Sau khi nhận được ý kiến thẩm định, Bộ Tài chính sẽ hoàn thiện hồ sơ để trình Chính phủ xem xét và báo cáo Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Quốc hội.
Theo Bộ Tài chính, quy định miễn thuế TNCN đối với thu nhập từ lãi tiền gửi tại các tổ chức tín dụng không chỉ giảm nghĩa vụ thuế cho người nộp thuế mà còn phù hợp với định hướng cải cách hệ thống chính sách thuế. Dự án Luật TNCN (thay thế) dự kiến sẽ sửa đổi tổng thể các quy định liên quan đến chính sách thuế TNCN hiện hành với 7 nhóm chính sách. Những nội dung này sẽ góp phần giảm nghĩa vụ thuế cho NNT và đảm bảo phù hợp với các nghị quyết của Đảng và Nhà nước. Cụ thể:
- Dự án sẽ điều chỉnh mức giảm trừ gia cảnh cho NNT theo sự thay đổi về mức sống và chỉ số giá, sửa đổi các khoản đóng góp từ thiện và nhân đạo được giảm trừ, cũng như các khoản giảm trừ đặc thù khác. Bên cạnh đó, Bộ Tài chính cũng sẽ điều chỉnh các mức thuế suất và khoảng cách thu nhập trong các bậc thuế của biểu thuế lũy tiến từng phần, bổ sung quy định về miễn, giảm thuế cho một số lĩnh vực ưu tiên nhằm thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao.
- Bộ Tài chính nhấn mạnh rằng nguồn thu từ thuế TNCN là rất quan trọng trong việc đảm bảo cân đối ngân sách nhà nước, phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội. Trong giai đoạn vừa qua, Bộ đã xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính sách thuế TNCN theo Chiến lược cải cách hệ thống thuế. Nhiều chính sách miễn, giảm, gia hạn thời hạn nộp thuế đã được ban hành nhằm hỗ trợ cá nhân vượt qua khó khăn, đặc biệt trong các giai đoạn như 2011-2013 và trong 5 năm gần đây khi đối phó với dịch bệnh Covid-19.
- Tuy nhiên, Bộ Tài chính cũng nhận thấy rằng trong bối cảnh phát triển kinh tế – xã hội và hội nhập quốc tế, cần phải nghiên cứu sửa đổi các quy định để phù hợp với thực tiễn. Điều này nhằm tháo gỡ vướng mắc và tạo thuận lợi hơn cho NNT, đồng thời đảm bảo tính minh bạch và đồng bộ của hệ thống pháp luật.
V. Cần có những giải pháp phù hợp với thực tiễn tại Việt Nam và thông lệ quốc tế khi áp dụng thuế tối thiểu toàn cầu
Ngày 21/02/2025, Viện Chiến lược và Chính sách tài chính (Bộ Tài chính) đã tổ chức buổi đánh giá và nghiệm thu đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ mang tên “Giải pháp áp dụng thuế tối thiểu toàn cầu tại Việt Nam,” do Tổng cục Thuế chủ trì. Đề tài đã làm rõ hiện trạng và phân tích khách quan về việc áp dụng thuế tối thiểu toàn cầu trong bối cảnh toàn cầu hóa và sự biến động trong chuỗi cung ứng, nhấn mạnh rằng kinh tế thế giới đang chuyển mình theo hướng linh hoạt hơn, ứng dụng công nghệ số và thúc đẩy thương mại điện tử.
Mục tiêu của thuế tối thiểu toàn cầu là xóa bỏ các kẽ hở trong quản lý thuế, ngăn chặn tình trạng doanh nghiệp chuyển giá và trốn thuế, đồng thời giúp tăng thu ngân sách, tạo cơ hội cho Việt Nam cải cách và hoàn thiện hệ thống thuế theo chuẩn mực quốc tế. Chính phủ Việt Nam đã cam kết thực hiện thuế tối thiểu toàn cầu, với chỉ đạo từ Thủ tướng Chính phủ yêu cầu các bộ, ngành nghiên cứu và đề xuất các giải pháp liên quan đến thuế suất tối thiểu, tập trung rà soát, hoàn thiện thể chế và xây dựng lộ trình áp dụng. Hội đồng tư vấn đã đánh giá cao đề tài, cho rằng nghiên cứu mang tính cấp thiết cả về lý thuyết và thực tiễn, được thực hiện công phu, nghiêm túc với phương pháp tiếp cận phù hợp và độ tin cậy cao. TS. Nguyễn Như Quỳnh, Viện trưởng Viện Chiến lược và Chính sách tài chính, đã chúc mừng Ban chủ trì đề tài và nhấn mạnh rằng kết quả nghiên cứu sẽ là nền tảng cho các nghiên cứu tiếp theo trong lĩnh vực thuế tối thiểu toàn cầu, đồng thời tạo ra giải pháp cụ thể cho Việt Nam nhằm duy trì tính cạnh tranh trong môi trường đầu tư, mở ra cơ hội cho việc thu hút dòng vốn FDI và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong tương lai.
VI. Chuyển đổi số để phục vụ tốt nhất cho người nộp thuế
Trong những năm gần đây, ngành Thuế Việt Nam đã có những bước tiến mạnh mẽ trong việc ứng dụng công nghệ mới và chuyển đổi số, nhằm nâng cao hiệu quả quản lý thuế và mang lại nhiều lợi ích cho cả cơ quan thuế, doanh nghiệp và người dân. Phó Cục trưởng Cục Công nghệ thông tin, Lưu Nguyên Trí, đã chia sẻ rằng chuyển đổi số không chỉ giúp hiện đại hóa công tác quản lý mà còn là động lực quan trọng thúc đẩy cải cách hành chính, tăng cường hiệu suất và tính tuân thủ tự nguyện trong thi hành pháp luật thuế của người nộp thuế.
- Theo Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị, trong năm 2025 và các năm tiếp theo, ngành Thuế sẽ tiếp tục hoàn thiện thể chế, quy trình quản lý và ứng dụng công nghệ thông tin để chuyển đổi số toàn ngành. Những kết quả nổi bật đã đạt được bao gồm việc triển khai hóa đơn điện tử (HĐĐT) trên toàn quốc, đặc biệt cho hoạt động kinh doanh xăng dầu, giúp ghi nhận giao dịch tức thời, hạn chế gian lận thuế và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
- Ngành Thuế cũng đã mở rộng các dịch vụ thuế điện tử, như eTax Mobile, và triển khai cổng thông tin điện tử cho các nhà cung cấp nước ngoài và hộ cá nhân kinh doanh thương mại điện tử. Việc xây dựng hệ thống phân tích dữ liệu lớn về NNT và HĐĐT đã giúp cơ quan thuế phát hiện các hành vi bất thường, từ đó nâng cao khả năng giám sát và kiểm soát.
- Ngoài ra, ngành Thuế đã tích cực xây dựng cơ sở dữ liệu về văn bản chính sách pháp luật thuế và áp dụng trí tuệ nhân tạo trong việc cung cấp trợ lý ảo hỗ trợ NNT. Những ứng dụng này không chỉ giảm tải công việc cho cán bộ thuế mà còn nâng cao chất lượng hỗ trợ NNT.
- Trong thời gian tới, ngành Thuế sẽ tiếp tục triển khai các giải pháp chuyển đổi số, với mục tiêu tự động hóa quy trình quản lý thuế. Cụ thể, vào tháng 3/2025, ngành sẽ ra mắt hệ thống hoàn thuế thu nhập cá nhân tự động, giúp giảm thời gian giải quyết hồ sơ mà không cần can thiệp thủ công. Ngành cũng sẽ tích hợp với cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư để sử dụng mã định danh cá nhân thay cho mã số thuế từ ngày 01/07/2025.
- Ngành Thuế còn đặt mục tiêu cung cấp 100% dịch vụ công trực tuyến toàn trình vào cuối năm 2025, mở rộng kết nối và trao đổi thông tin với các bộ, ngành khác để hỗ trợ NNT trong việc xác định nghĩa vụ thuế. Việc áp dụng AI cũng sẽ được mở rộng để phát hiện giao dịch bất thường và nâng cao trải nghiệm của NNT.
- Cuối cùng, ngành Thuế sẽ triển khai hệ thống công nghệ thông tin cho phép NNT đánh giá mức độ hài lòng về chất lượng phục vụ của công chức thuế. Những giải pháp này không chỉ giúp nâng cao trách nhiệm và chất lượng phục vụ của cán bộ thuế mà còn hướng tới mục tiêu quản lý hiện đại, minh bạch và hiệu quả, lấy người dân và doanh nghiệp làm trung tâm phục vụ trong thời đại số. Những nỗ lực này sẽ góp phần vào việc cải cách thủ tục hành chính, tăng thu ngân sách nhà nước và thúc đẩy quá trình chuyển đổi số trong ngành Thuế.
VIII. Đẩy mạnh triển khai Cổng thông tin điện tử hỗ trợ hộ, cá nhân kinh doanh thương mại điện tử
Tổng cục Thuế vừa có công văn gửi Cục Thuế các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương yêu cầu đẩy mạnh triển khai Cổng thông tin điện tử dành cho hộ, cá nhân kinh doanh để đăng ký, kê khai và nộp thuế từ hoạt động thương mại điện tử, kinh doanh trên nền tảng số (Cổng TMĐT HKD). Cổng thông tin này chính thức được vận hành từ ngày 19/12/2024, theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại Chỉ thị số 18/CT-TTg ngày 30/05/2023 và Công điện số 56/CĐ-TTg ngày 06/06/2024, nhằm tăng cường quản lý nhà nước đối với hoạt động kinh doanh TMĐT.
- Cổng thông tin áp dụng cho tất cả các HKD và cá nhân có doanh thu từ hoạt động kinh doanh trên các nền tảng TMĐT trong và ngoài nước, với triển khai trên phạm vi toàn quốc. Để nâng cao hiệu quả triển khai, Tổng cục Thuế đã giao nhiệm vụ cho các đơn vị trực thuộc thực hiện công tác tuyên truyền về lợi ích, ý nghĩa, đối tượng áp dụng và các chức năng của Cổng TMĐT HKD. Thông tin sẽ được phổ biến qua các kênh truyền thông như báo chí, truyền hình, phát thanh và trang thông tin điện tử của cơ quan thuế.
- Ngoài ra, Tổng cục Thuế sẽ phối hợp với các sàn TMĐT để phổ biến quy định đến các cá nhân, HKD trực tuyến và tổ chức các hội nghị tập huấn hướng dẫn kê khai, nộp thuế trực tuyến. Để hỗ trợ tốt nhất cho người nộp thuế, Tổng cục Thuế sẽ xây dựng các video hướng dẫn chi tiết về cách thức đăng ký, kê khai và nộp thuế trên Cổng TMĐT HKD, đăng tải trên các nền tảng mạng xã hội.
- Công tác tiếp nhận và xử lý hồ sơ thuế trên Cổng TMĐT HKD sẽ được thực hiện theo hướng dẫn tại Sổ tay nghiệp vụ có sẵn trên hệ thống của Tổng cục Thuế. Trong giai đoạn đầu triển khai, cán bộ thuế sẽ thường xuyên kiểm soát và hỗ trợ kịp thời, giúp HKD và cá nhân kinh doanh thực hiện nghĩa vụ thuế một cách chính xác và đúng thời hạn. Việc đưa vào hoạt động Cổng TMĐT HKD là bước tiến quan trọng trong hiện đại hóa quản lý thuế, đảm bảo công bằng trong nghĩa vụ thuế giữa kinh doanh truyền thống và kinh doanh trên nền tảng số, góp phần thúc đẩy sự phát triển bền vững của nền kinh tế số tại Việt Nam.
IX. Bãi bỏ quy định mức giá trị hàng hóa nhập khẩu gửi qua dịch vụ chuyển phát nhanh được miễn thuế
Ngày 03/01/2025, Phó Thủ tướng Chính phủ Hồ Đức Phớc đã ký Quyết định số 01/2025/QĐ-TTg chính thức bãi bỏ toàn bộ các quy định tại Quyết định số 78/2010/QĐ-TTg ngày 30/11/2010 về mức giá trị hàng hóa nhập khẩu gửi qua dịch vụ chuyển phát nhanh được miễn thuế. Quy định trước đây cho phép hàng hóa có giá trị dưới 1 triệu đồng được miễn thuế nhập khẩu và thuế Giá trị gia tăng (GTGT), trong khi hàng hóa trên 1 triệu đồng phải nộp thuế theo quy định.
Sự gia tăng số lượng đơn hàng có giá trị nhỏ từ nước ngoài về Việt Nam, đặc biệt là trong bối cảnh TMĐT bùng nổ, đã tạo ra áp lực lớn lên ngân sách nhà nước. Theo thống kê, có khoảng 4-5 triệu đơn hàng được vận chuyển từ Trung Quốc về Việt Nam mỗi ngày, với giá trị mỗi đơn hàng chỉ từ 100.000-300.000 đồng. Việc miễn thuế cho các đơn hàng này có thể dẫn đến thất thu ngân sách lớn và tạo điều kiện cho hàng hóa giá rẻ tràn vào thị trường.
Nhiều đại biểu Quốc hội đã đề nghị nghiên cứu bãi bỏ quy định miễn thuế này để bảo vệ nguồn thu và tạo môi trường kinh doanh công bằng giữa hàng hóa sản xuất trong nước và hàng nhập khẩu. Đại biểu Hoàng Thị Thanh Thúy nhấn mạnh rằng chính sách miễn thuế không còn phù hợp với thực tế hiện nay và cần được điều chỉnh để đảm bảo sự công bằng trong cạnh tranh. Việc bãi bỏ quy định miễn thuế sẽ giúp đảm bảo công bằng giữa hàng hóa trong nước và hàng hóa nhập khẩu. Hàng hóa sản xuất trong nước vẫn phải chịu thuế GTGT, trong khi hàng hóa nhập khẩu trước đây lại không bị áp dụng thuế này, dẫn đến sự chênh lệch giá và cạnh tranh không công bằng. Quyết định này không chỉ nhằm đảm bảo nguồn thu cho ngân sách nhà nước mà còn khuyến khích tiêu dùng hàng hóa sản xuất trong nước, phù hợp với định hướng phát triển kinh tế bền vững của Đảng và Nhà nước.
X. Sửa đổi, bổ sung quy định về phí, lệ phí
Bộ Tài chính vừa ban hành Thông tư số 06/2025/TT-BTC, sửa đổi, bổ sung một số điều của các thông tư quy định về phí, lệ phí. Thông tư này nhằm cập nhật và điều chỉnh các quy định liên quan đến việc thu, nộp và quản lý phí trong các lĩnh vực cụ thể. Cụ thể:
- Thông tư sửa đổi Điều 3 Thông tư số 33/2018/TT-BTC, theo đó tổ chức thu phí, lệ phí không chỉ là Tổng cục Du lịch và các Sở liên quan mà còn bao gồm các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp Giấy phép kinh doanh dịch vụ lữ hành quốc tế, lữ hành nội địa, thẻ hướng dẫn viên du lịch, và Giấy phép thành lập văn phòng đại diện của doanh nghiệp lữ hành nước ngoài.
- Thông tư cũng sửa đổi Điều 3 Thông tư số 112/2021/TT-BTC, mở rộng tổ chức thu phí là các cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập có thẩm quyền thực hiện thẩm định cấp giấy chứng nhận vật tư thủy sản và các hoạt động liên quan đến lĩnh vực thủy sản.
- Bên cạnh đó, khoản 2 Điều 2 Thông tư số 37/2023/TT-BTC cũng được điều chỉnh, xác định tổ chức thu phí, lệ phí là cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp chứng nhận đăng ký, biển xe máy chuyên dùng, cấp bằng, chứng chỉ hoạt động trên các loại phương tiện, và sát hạch cấp giấy phép lái xe cơ giới đường bộ. Thông tư số 06/2025/TT-BTC sẽ có hiệu lực thi hành từ ngày 10/3/2025, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các tổ chức và cá nhân trong việc thực hiện nghĩa vụ tài chính liên quan đến phí và lệ phí.
XI. Tổng cục Thuế nâng cấp ứng dụng eTax, iCaNhan và eTax Mobile nhằm đáp ứng chuẩn bảo mật mới
Nhằm nâng cao trải nghiệm người dùng và đảm bảo an toàn thông tin trong các giao dịch thuế điện tử, Tổng cục Thuế vừa thông báo về việc nâng cấp ba ứng dụng thuế quan trọng: eTax phiên bản 2.9.3 dành cho doanh nghiệp, iCaNhan phiên bản 3.8.9 dành cho cá nhân, và eTax Mobile phiên bản 3.2.5 dành cho thiết bị di động. Theo thông báo:
- Phiên bản eTax 2.9.3 được nâng cấp với tính năng đăng nhập bằng tài khoản định danh điện tử tổ chức do Bộ Công an cấp, giúp nâng cao tính bảo mật và thuận tiện trong quá trình sử dụng. Để sử dụng tài khoản này, tổ chức cần đăng ký tài khoản định danh điện tử theo quy định của Bộ Công an. Điều kiện cấp tài khoản yêu cầu doanh nghiệp hoặc tổ chức phải có số định danh cá nhân của người đại diện trùng khớp với thông tin lưu trữ trong Cơ sở dữ liệu đăng ký kinh doanh hoặc Cơ sở dữ liệu của cơ quan Thuế. Pháp nhân cũng phải hợp pháp theo quy định kiểm tra của Bộ Công an. Một yêu cầu quan trọng khác là làm sạch và chuẩn hóa thông tin người đại diện. Nếu thông tin giữa Cơ sở dữ liệu Đăng ký thuế và Cơ sở dữ liệu VNeID không khớp, tài khoản định danh điện tử sẽ không được cấp. Quá trình quản lý tài khoản cũng được quy định chặt chẽ; nếu người nộp thuế chuyển sang trạng thái “Ngừng hoạt động” trong hệ thống đăng ký thuế, tài khoản sẽ bị thu hồi hoặc khóa. Người nộp thuế có thể tự phân quyền sử dụng trên hệ thống thuế điện tử, với việc đăng nhập bằng số căn cước công dân của cá nhân đại diện.
- Ngoài eTax, phiên bản iCaNhan 3.8.9 cũng được nâng cấp để tích hợp chức năng đăng nhập bằng tài khoản định danh điện tử VNeID, đảm bảo chuẩn bảo mật 2.0 của Bộ Công an. Tương tự, eTax Mobile phiên bản 3.2.5 cũng hỗ trợ đăng nhập bằng tài khoản định danh điện tử VNeID, giúp người dùng thực hiện các giao dịch thuế ngay trên điện thoại di động với tính an toàn thông tin cao.
Tổ chức và cá nhân nộp thuế cần chủ động nâng cấp các ứng dụng để tận dụng những cải tiến mới, nâng cao tính bảo mật và thuận tiện trong việc thực hiện nghĩa vụ thuế. Nếu gặp khó khăn hoặc cần hỗ trợ, người nộp thuế có thể liên hệ trực tiếp với cơ quan Thuế quản lý. Việc triển khai các phiên bản nâng cấp này đánh dấu bước tiến quan trọng trong công tác hiện đại hóa hệ thống quản lý thuế, thúc đẩy chuyển đổi số trong ngành Thuế, đồng thời tăng cường tính minh bạch, an toàn và hiệu quả cho cả cơ quan thuế lẫn người nộp thuế trong bối cảnh công nghệ số ngày càng phát triển.
XII. Xây quy định cụ thể về trách nhiệm khấu trừ, nộp thuế thay của sàn thương mại điện tử:
Bộ Tài chính đang lấy ý kiến góp ý đối với dự thảo Nghị định quy định quản lý thuế đối với hoạt động kinh doanh trên nền tảng thương mại điện tử và nền tảng số của hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh. Dự thảo Nghị định quy định trách nhiệm cụ thể của tổ chức quản lý nền tảng thương mại điện tử đối với hộ kinh doanh và cá nhân kinh doanh, bao gồm trách nhiệm khấu trừ và nộp thuế thay cho các đối tượng này.
- Về phạm vi áp dụng, dự thảo Nghị định xác định đối tượng áp dụng bao gồm hộ kinh doanh, cá nhân cư trú và không cư trú có hoạt động kinh doanh trên nền tảng thương mại điện tử. Ngoài ra, các tổ chức quản lý sàn giao dịch thương mại điện tử và nền tảng số có chức năng thanh toán cũng thuộc phạm vi điều chỉnh.
- Về trách nhiệm khấu trừ và nộp thuế, Tổ chức quản lý nền tảng thương mại điện tử có trách nhiệm khấu trừ và nộp thuế giá trị gia tăng cho hộ kinh doanh và cá nhân cư trú. Đối với cá nhân không cư trú, tổ chức này sẽ thực hiện khấu trừ và nộp thuế thu nhập cá nhân cho các giao dịch phát sinh tại Việt Nam.
- Thời điểm khấu trừ thuế được xác định trước khi tổ chức quản lý nền tảng thương mại điện tử chuyển tiền thanh toán từ người mua đến hộ kinh doanh và cá nhân kinh doanh. Tỷ lệ thuế GTGT áp dụng cho hàng hóa là 1%, đối với dịch vụ là 5%, và đối với vận tải hoặc dịch vụ gắn với hàng hóa là 3%. Về thuế TNCN, cá nhân cư trú phải chịu mức thuế 0,5% đối với hàng hóa, 2% đối với dịch vụ và 1,5% đối với vận tải hoặc dịch vụ gắn với hàng hóa. Cá nhân không cư trú sẽ phải chịu mức thuế lần lượt là 1%, 5% và 2% cho các loại hình kinh doanh tương ứng.
- Các tổ chức quản lý nền tảng thương mại điện tử sẽ thực hiện kê khai số thuế khấu trừ hàng tháng theo quy định của pháp luật quản lý thuế. Hồ sơ kê khai bao gồm tờ khai khấu trừ thuế của hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh và bảng kê chi tiết số thuế đã khấu trừ. Các tổ chức trong nước sẽ được cấp mã số thuế riêng để kê khai và nộp thuế thay. Dự thảo Nghị định nhấn mạnh trách nhiệm của tổ chức quản lý nền tảng thương mại điện tử trong việc cung cấp thông tin của hộ kinh doanh và cá nhân kinh doanh theo yêu cầu của cơ quan thuế. Các tổ chức này cũng phải đăng ký sử dụng chứng từ khấu trừ thuế điện tử, cấp chứng từ khấu trừ thuế cho hộ kinh doanh và cá nhân kinh doanh theo phương thức điện tử, đồng thời lưu giữ dữ liệu giao dịch kinh doanh theo quy định của pháp luật quản lý thuế.
- Đối với hộ kinh doanh và cá nhân kinh doanh không thuộc đối tượng được khấu trừ, dự thảo Nghị định quy định họ sẽ trực tiếp thực hiện nghĩa vụ thuế, bao gồm thuế GTGT, thuế TNCN và các khoản thu khác. Việc kê khai thuế có thể được thực hiện theo tháng hoặc theo từng lần phát sinh, tùy thuộc vào hình thức và tần suất kinh doanh.
Nếu được thông qua, Nghị định sẽ có tác động mạnh mẽ đến việc quản lý thuế trong lĩnh vực thương mại điện tử, góp phần tăng cường tính minh bạch và hiệu quả trong công tác thu thuế đối với hoạt động kinh doanh trên nền tảng số. Bộ Tài chính đang khuyến khích ý kiến đóng góp từ các tổ chức, cá nhân trước khi trình Chính phủ ban hành.
Bạn đang cần tư vấn thiết kế website bán hàng chuyên nghiệp , tham khảo dịch vụ của NKS nhé
NKS - Công ty TNHH Giải pháp Công nghệ Tri Thức Mới
20 năm tư vấn và cung cấp giải pháp xây dựng thương hiệu toàn diện trên Internet
222 Lê Văn Sỹ, Phường 14, Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam
Email: system@nks.vn
Website: https://nks.com.vn
Hotline: 0932030958