Bản tin Thuế tháng 12 / 2024

Mục lục

I. Thông báo thời hạn nộp tờ khai thuế trong kỳ kê khai Tháng 11/2024

Bkav xin thông báo hạn nộp hồ sơ khai thuế trong kỳ kê khai Tháng 11/2024 là Thứ Sáu, ngày 20/12/2024.

Quý Khách hàng nên kê khai, nộp tờ khai sớm trước thời gian hết hạn ít nhất từ 1 đến 2 ngày để tránh việc quá tải, không gửi được tờ khai.

II. Tổng cục Thuế tổ chức Hội thảo lấy ý kiến về Dự thảo Nghị định áp dụng thuế thu nhập doanh nghiệp bổ sung

Sáng ngày 28/11/2024, Tổng cục Thuế phối hợp với Tổ chức Hợp tác Quốc tế Đức GIZ tổ chức Hội thảo “Lấy ý kiến về Dự thảo Nghị định quy định chi tiết một số điều của Nghị quyết số 107/2023/QH15”. Hội thảo là một hoạt động được hỗ trợ bởi Dự án Tăng cường quản lý tài chính công tại Việt Nam, do Liên minh Châu Âu và chính phủ Đức đồng tài trợ. Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Thuế Đặng Ngọc Minh chủ trì hội thảo.

Hội thảo có sự tham dự của đại diện đến từ các bộ/đơn vị có liên quan; Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI); các Hiệp hội doanh nghiệp (DN) tại Việt Nam, Hội Tư vấn thuế Việt Nam; 6 Cục Thuế có DN chịu tác động bởi thuế tối thiểu toàn cầu; các Công ty tư vấn Kiểm toán; các đơn vị thuộc Bộ Tài chính và Tổng cục Thuế. Đặc biệt, Hội thảo có sự tham dự của các DN thuộc đối tượng áp dụng quy định về thuế tối thiểu toàn cầu hoạt động tại các tỉnh, thành phố phía Bắc (bao gồm cả DN Việt Nam và DN FDI).

Phát biểu khai mạc, Phó Tổng cục trưởng Đặng Ngọc Minh chia sẻ:

  • Việc xây dựng và triển khai các chính sách thuế, nhất là các chính sách thuế có liên quan đến thu hút đầu tư nước ngoài tại Việt Nam luôn là một trong những nhiệm vụ quan trọng, không chỉ đối với các cơ quan quản lý nhà nước mà còn đối với các DN, tổ chức và các tổ chức, DN quốc tế.
  • Hiện Nghị quyết 107/2023/QH15 của Quốc hội đã đề ra một hướng đi mới và là căn cứ pháp lý để triển khai đồng bộ công tác thu ngân sách Nhà nước (NSNN), đồng thời cũng tạo điều kiện cho Việt Nam hội nhập sâu rộng hơn với cộng đồng quốc tế trong bối cảnh thuế toàn cầu đang có những biến động mạnh mẽ.
  • Đối với việc áp dụng thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN) bổ sung theo quy định chống xói mòn cơ sở thuế toàn cầu, Phó Tổng cục trưởng Đặng Ngọc Minh cho biết, đây là một phần trong cam kết của Việt Nam đối với các tổ chức quốc tế, đặc biệt là Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD), nhằm đảm bảo sự công bằng trong hệ thống thuế quốc tế, ngăn chặn hiện tượng chuyển lợi nhuận và tránh việc thuế bị “hạ thấp” qua các hình thức chuyển nhượng lãi suất hoặc lợi nhuận giữa các công ty đa quốc gia.
  • Hội thảo được tổ chức với mong muốn nhận được ý kiến đóng góp của các chuyên gia, các công ty tư vấn hàng đầu, cũng như các DN lớn, cùng với sự tham gia của các cơ quan quản lý nhà nước có mặt tại Hội thảo để nghị định hoàn thiện phải phù hợp với thực tiễn quản lý, tạo môi trường pháp lý rõ ràng và minh bạch, giúp các DN tuân thủ tốt các quy định thuế mới và đồng thời bảo vệ quyền lợi của quốc gia.

Chia sẻ tại Hội thảo, Tiến sĩ Peter Wenzel – Chuyên gia tư vấn chính sách về thuế đại diện Dự án Tăng cường quản lý tài chính công tại Việt Nam nhận định, ngay sau khi Nghị quyết 107/2023/QH15 về thuế tối thiểu toàn cầu được Quốc hội Việt Nam thông qua vào tháng 11/2023, việc Việt Nam tiến hành nghiên cứu xây dựng các quy định chi tiết về thuế tối thiểu toàn cầu là một bước đi rất chủ động thể hiện được mong muốn hội nhập quốc tế sâu rộng hơn trong môi trường kinh tế thế giới.

Trao đổi về quy định về quản lý thuế, kê khai và nộp thuế tại Dự thảo Nghị định, đại diện Vụ Kê khai và Kế toán thuế (Tổng cục Thuế) đã giới thiệu nội dung cơ bản về quy định đăng ký, kê khai, nộp thuế TNDN bổ sung theo quy định thuế tối thiểu toàn cầu và các mẫu biểu hồ sơ được thiết kế mới tại Dự thảo Nghị định. Theo đại diện Vụ Kê khai và Kế toán thuế các quy định về đăng ký, kê khai và nộp thuế tại Dự thảo Nghị định Quy định chi tiết một số Điều của Nghị Quyết số 107/2023/QH15 ngày 29/11/2023 được xây dựng dựa trên các quy định pháp luật về quản lý thuế hiện hành và thống nhất với các hướng dẫn hành chính trong bộ quy tắc mẫu về thuế tối thiểu toàn cầu (Mục 8 trong Model rules).

Kết thúc hội thảo, Phó Tổng cục trưởng Đặng Ngọc Minh đề nghị đại diện lãnh đạo các đơn vị nghiệp vụ của Tổng cục Thuế có trao đổi trực tiếp đối với những ý kiến trao đổi của các đại biểu về từng nội dung chi tiết được quy định tại dự thảo Nghị định quy định chi tiết một số điều của Nghị quyết số 107/2023/QH15.

III. Ứng dụng Cổng Thông tin điện tử dành cho cho hộ, cá nhân kinh doanh thương mại điện tử phải hướng đến thuận tiện, thân thiện với người nộp thuế

Sáng ngày 25/11/2024, Tổng cục Thuế tổ chức cuộc họp trực tuyến rà soát, đánh giá ứng dụng Cổng Thông tin điện tử (TTĐT) dành cho hộ, cá nhân đăng ký, khai, nộp thuế đối với hoạt động kinh doanh thương mại điện tử (TMĐT). Tham dự cuộc họp có đại diện đơn vị chức năng thuộc Tổng cục Thuế và đại diện 7 Cục Thuế tham dự trực tuyến, gồm: TP Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, Bắc Ninh, Thái Nguyên, Quảng Ninh, Hải Phòng, Bình Dương, Đồng Nai.

Phát biểu chỉ đạo cuộc họp, Phó Tổng cục trưởng Mai Sơn cho biết:

  • Cùng với sự phát triển của nền kinh tế số, hoạt động kinh doanh của hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh cũng phát triển nhanh chóng, không chỉ hoạt động theo mô hình truyền thống như: có cửa hàng, cửa hiệu, địa điểm kinh doanh cố định, chủ hộ kinh doanh thường là các hộ gia đình, hoạt động trong phạm vi địa bàn nơi cư trú của cá nhân… mà còn phát triển mạnh mẽ với nhiều hình thức kinh doanh mới.
  • Theo đó, với sự phát triển nhanh các hộ, cá nhân kinh doanh hoặc hợp tác kinh doanh với tổ chức, kinh doanh trong mô hình kinh tế chia sẻ, kinh doanh cung cấp dịch vụ nội dung thông tin số xuyên biên giới… đòi hỏi ngành Thuế cần có phương thức mới trong quản lý thuế hộ kinh doanh phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế, từ đó hỗ trợ cơ quan thuế thực hiện tốt nhiệm vụ được giao, đồng thời đồng hành, hỗ trợ người nộp thuế (NNT) thực hiện quyền lợi, nghĩa vụ của mình được đầy đủ, nhanh chóng và thuận tiện nhất.
  • Sau nhiều cuộc họp thảo luận triển khai xây dựng Cổng TTĐT dành cho hộ kinh doanh, cá nhân đăng ký, khai, nộp thuế đối với hoạt động kinh doanh TMĐT về cơ bản Cổng TTĐT đã hoàn thiện. Hiện việc chạy thử các ứng dụng trên giao diện cũng như giải pháp, cách thức vận hành đã hoàn thiện và chuẩn bị đưa ứng dụng Cổng TTĐT vào áp dụng thực tiễn.

Báo cáo tại cuộc họp, bà Nguyễn Thị Lan Anh – Vụ trưởng Vụ Quản lý Thuế doanh nghiệp nhỏ và vừa và hộ kinh doanh, cá nhân (DNNCN) cho biết:

  • Cổng TTĐT dành cho hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh TMĐT sẽ hỗ trợ tất cả các hộ, cá nhân kinh doanh TMĐT có thêm một kênh hỗ trợ khi thực hiện đăng ký, kê khai, nộp thuế một cách thuận tiện.
  • Triển khai yêu cầu chỉ đạo của Bộ Tài chính và Tổng cục Thuế các đơn vị nghiệp vụ đã tổ chức nhiều cuộc họp để trao đổi nghiệp vụ, thống nhất phương án triển khai Cổng TMĐT gồm 5 chức năng chính: (i) đăng nhập; (ii) đăng ký thuế; (iii) kê khai; (iv) nộp thuế; (v) tra cứu. Ngoài ra, Cổng còn hỗ trợ một số tính năng như: (i) hướng dẫn sử dụng; (ii) tiếp nhận phản hồi từ NNT.

Trao đổi tại cuộc họp, các ý kiến của đại diện các đơn vị nghiệp vụ và Cục Thuế địa phương tập trung vào những đánh giá về việc xây dựng Cổng TTĐT và bày tỏ kỳ vọng Cổng sẽ hỗ trợ các hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh TMĐT có thêm một kênh hỗ trợ khi thực hiện đăng ký, kê khai, nộp thuế một cách thuận tiện. Tuy nhiên, cũng có ý kiến bày tỏ lo ngại và cho rằng do đặc thù của hoạt động kinh doanh TMĐT là lĩnh vực mới và trong quá trình áp dụng Cổng trong thực tiễn vẫn cần tiếp tục nghiên cứu bổ sung những ứng dụng có liên quan đến việc hướng dẫn khai nộp thuế trên Cổng TTĐT, từ đó tiếp tục hoàn thiện theo hướng thân thiện với người dùng và hỗ trợ tối đa cho NNT.

Kết luận cuộc họp, Phó Tổng cục trưởng Mai Sơn ghi nhận các các ý kiến thảo luận tích cực trên các mặt thực tiễn hoạt động quản lý thuế tại Cục Thuế các địa phương. Đồng thời, Phó Tổng cục trưởng giao Vụ DNNCN chủ trì phối hợp với Cục CNTT tiếp tục nghiên cứu, phối hợp với các đơn vị và các Cục Thuế hoàn thiện các tính năng của Cổng TTĐT theo hướng tạo điều kiện thuận tiện nhất cho hộ kinh doanh, cá nhân có hoạt động TMĐT thực hiện nghĩa vụ thuế.

IV. Sàn thương mại điện tử nộp thuế thay người kinh doanh từ 01/04/2025

Chiều ngày 29/11/2024, Quốc hội thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chứng khoán, Luật Kế toán, Luật Kiểm toán độc lập, Luật Ngân sách nhà nước, Luật Quản lý, sử dụng tài sản công, Luật Quản lý thuế và Luật Dự trữ quốc gia (1 luật sửa 9 luật), với 445/450 đại biểu Quốc hội tham gia biểu quyết tán thành, chiếm tỷ lệ 92,90% tổng số đại biểu Quốc hội. Theo đó, nhà quản lý sàn giao dịch thương mại điện tử, nhà quản lý nền tảng số có chức năng thanh toán sẽ thực hiện khấu trừ, nộp thuế thay, kê khai số thuế đã khấu trừ cho hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh từ ngày 01/04/2025.

Một trong những điểm đáng chú ý trong 1 luật sửa 9 luật là bổ sung quy định khoản 4a vào sau khoản 4 Điều 42 Luật Quản lý thuế về việc tổ chức là nhà quản lý sàn giao dịch thương mại điện tử, nhà quản lý nền tảng số có chức năng thanh toán (bao gồm cả tổ chức trong nước và nước ngoài) và các tổ chức có hoạt động kinh tế số khác theo quy định của Chính phủ thực hiện khấu trừ, nộp thuế thay, kê khai số thuế đã khấu trừ cho hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh.

Trường hợp hộ, cá nhân kinh doanh trên nền tảng thương mại điện tử, nền tảng số không thuộc đối tượng được khấu trừ, nộp thuế thay thì có nghĩa vụ trực tiếp đăng ký thuế, khai thuế, nộp thuế.

Chính phủ quy định chi tiết phạm vi trách nhiệm và cách thức các tổ chức quản lý sàn giao dịch thương mại điện tử, quản lý nền tảng số và các tổ chức có hoạt động kinh tế số khác thực hiện khấu trừ, nộp thuế thay, kê khai số thuế đã khấu trừ đối với các giao dịch kinh doanh trên nền tảng thương mại điện tử, nền tảng số của các hộ, cá nhân; về hồ sơ, thủ tục khai thuế, nộp thuế và hoàn thuế của các hộ, cá nhân có hoạt động kinh doanh trên nền tảng thương mại điện tử, nền tảng số.

Quy định nêu trên sẽ có hiệu lực thi hành từ ngày 01/4/2025.

V. Cục Thuế TP Hà Nội áp dụng thí điểm ứng dụng Chatbot AI – Trợ lý ảo hỗ trợ người nộp thuế

Nhận thức rõ tầm quan trọng của chuyển đổi số trong quản lý nhà nước nước nói chung và công tác quản lý thuế nói riêng, bám sát các chỉ đạo của Chính phủ, UBND Hà Nội, Bộ Tài chính và Tổng cục Thuế, sáng ngày 21/11/2024, Cục Thuế TP Hà Nội đã triển khai Lễ công bố ứng dụng “Trợ lý ảo trong hỗ trợ NNT” áp dụng thí điểm tại Cục Thuế TP Hà Nội. Đến dự có Tổng cục trưởng Tổng cục Thuế Mai Xuân Thành; Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Thuế Vũ Mạnh Cường; Phó Chủ tịch UBND TP Hà Nội Hà Minh Hải; Chủ tịch Hội tư vấn Thuế Việt Nam Nguyễn Thị Cúc; cùng đại diện lãnh đạo các đơn vị thuộc Tổng cục Thuế; đại diện sở, ban, ngành trên địa bàn TP Hà Nội.

1. Trợ lý ảo trong hỗ trợ người nộp thuế

Cục Thuế TP Hà Nội cho biết:

  • Xác định chuyển đổi số là một trong những nhiệm vụ chính trị trọng tâm, Cục Thuế TP Hà Nội đã sớm triển khai với mục tiêu “lấy sự hài lòng của người dân, DN và NNT làm thước đo chất lượng công tác”. Theo đó, Cục Thuế đã và đang tập trung đẩy mạnh ứng dụng các giải pháp công nghệ thông tin, ưu tiên điện tử hóa từng bước trong quy trình quản lý thuế bắt đầu từ đăng ký thuế điện tử, kê khai thuế điện tử, nộp thuế điện tử, hoàn thuế điện tử, cưỡng chế nợ thuế điện tử… đến cung cấp dịch vụ điện tử, các công cụ hỗ trợ người dân, DN để giúp NNT tham gia vào quá trình chuyển đổi số.
  • Đối với công tác tuyên truyền, hỗ trợ NNT, Cục Thuế luôn coi đây là một biện pháp ưu tiên hàng đầu mà cơ quan thuế triển khai thực hiện nhằm nâng cao tính tự giác tuân thủ pháp luật của NNT. Chính vì vậy, song song với việc xây dựng cơ sở dữ liệu về thông tin quản lý thuế, việc xây dựng cơ sở dữ liệu hỗ trợ NNT và nghiên cứu, ứng dụng trí tuệ nhân tạo vào công tác hỗ trợ NNT là một trong những nhiệm vụ trọng tâm hàng đầu được Cục Thuế đặt ra nhằm cải cách hành chính thuế, nâng cao chất lượng phục vụ NNT.
  • Với số lượng quản lý lớn (trên 236 nghìn DN, 235 nghìn hộ kinh doanh và trên 10 triệu MST cá nhân), việc đảm bảo đáp ứng yêu cầu quản lý thuế, nâng cao hiệu quả hỗ trợ NNT, giảm thiểu khối lượng công việc cho công chức Thuế đặt ra yêu cầu cấp thiết cho Cục Thuế tập trung các giải pháp công nghệ, đặc biệt là trí tuệ nhân tạo (AI) trong công tác hỗ trợ NNT.
  • Với mục tiêu đó, ngay từ đầu năm 2024, Cục Thuế TP Hà Nội đã thu thập các nguồn dữ liệu từ hệ thống văn bản pháp luật về chính sách thuế và chính sách pháp luật có liên quan, bộ thủ tục hành chính thuế và bộ câu hỏi vướng mắc thường gặp được tổng hợp qua các hội nghị đối thoại giữa Cơ quan thuế và NNT. Đến nay Cục Thuế TP Hà Nội đã xây dựng được trên 12.000 nội dung hỏi đáp từ phía NNT và cơ quan thuế trên phạm vi cả nước.Bám sát chỉ đạo, định hướng sát sao của Lãnh đạo Tổng cục Thuế, Lãnh đạo UBND TP Hà Nội và sự nỗ lực, quyết tâm cao, Cục Thuế đã hoàn thành sản phẩm trí tuệ nhân tạo “Trợ lý ảo hỗ trợ NNT”. Sau quá trình nghiên cứu, phát triển, Cục Thuế TP Hà Nội vinh dự được Tổng cục Thuế chọn là đơn vị thí điểm tổ chức Lễ ra mắt sản phẩm trợ lý ảo hỗ trợ NNT.

2. Quy định pháp luật được kết hợp công nghệ trí tuệ nhân tạo

Cục Thuế TP Hà Nội cho biết:

  • Trợ lý ảo hỗ trợ NNT là một trong những phân hệ ứng dụng trí tuệ nhân tạo đầu tiên được cho ra mắt nằm trong dự án tổng thể ứng dụng trí tuệ nhân tạo vào công tác quản lý thuế mà Cục Thuế TP Hà Nội đang nghiên cứu xây dựng. Từ việc thực hiện tổng hợp, phân loại toàn bộ cơ sở dữ liệu về các quy định pháp luật, chính sách, thủ tục hành chính thuế (với 100 bộ luật chuyên ngành), biên tập hơn 10.000 câu hỏi song ngữ… và được tinh chỉnh, kết hợp với công nghệ trí tuệ nhân tạo, Trợ lý ảo hỗ trợ NNT sẽ thực hiện trả lời những câu hỏi của NNT một cách tự động, nhanh chóng với nội dung chi tiết, dễ hiểu, tích hợp sẵn các mẫu biểu thủ tục hành chính hiện hành, những clip hướng dẫn trực quan, dễ hiểu.
  • Điểm đáng lưu ý, đó là NNT có thể dễ dàng sử dụng, tương tác với Trợ lý ảo 24/7, mọi lúc mọi nơi thông qua các thiết bị công nghệ như smartphone, máy tính bảng, máy tính có kết nối mạng ngay trên Cổng/trang TTĐT của cơ quan thuế, ứng dụng thuế điện tử eTaxMobile và trên ứng dụng “Công dân Thủ đô số Ihanoi”.
  • Bên cạnh việc xây dựng và phát triển sản phẩm “Trợ lý ảo hỗ trợ NNT”, để tiếp tục nâng cao hiệu quả công tác quản lý thuế, Cục Thuế đã phối hợp với các đơn vị nghiệp vụ của Tổng cục Thuế tập trung xây dựng cơ sở dữ liệu lớn (Big Data) với nền tảng là cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư để triển khai thành công theo Đề án 06 của Chính phủ.
  • Với sự kết hợp cơ sở dữ liệu của các ngành Công an, Kế hoạch đầu tư, Bảo hiểm xã hội, cơ quan thống kê, ngân hàng nhà nước, tài nguyên môi trường, giao thông vận tải… cơ quan thuế đã hoàn thiện và triển khai hệ thống kho cơ sở dữ liệu ngành Thuế (Data Warehouse) của hơn 80 triệu NNT là DN, tổ chức, hộ cá nhân, cá nhân kinh doanh trên toàn quốc. Trên cơ sở dữ liệu lớn (Big Data) của ngành Thuế, Cục Thuế TP Hà Nội đã số hóa, kết nối thông tin để xây dựng, phát triển Hệ thống cơ sở dữ liệu TMĐT và có thể định danh chính xác NNT có hoạt động kinh doanh trên không gian mạng.
  • Hiện nay, về cơ bản, Cục Thuế TP Hà Nội đã có cơ sở dữ liệu hoàn thiện đối với tổ chức, cá nhân kinh doanh TMĐT, quản trị được dữ liệu với trên 117 triệu bản ghi về giao dịch mua bán từ đó, định danh, định vị danh hơn 325.000 gian hàng tương ứng với 222.000 mã số thuế là chủ sở hữu, người kinh doanh trên sàn TMĐT với các thông tin chi tiết về tên, địa chỉ, căn cước công dân, email, số điện thoại, địa chỉ kho hàng, tài khoản ngân hàng, giá trị bán trên sàn TMĐT. Kết quả Lũy kế 10 tháng đầu năm 2024, tổng số thu NSNN đối với hoạt động TMĐT là gần 35.000 tỷ đồng, tăng 9.000 tỷ đồng, tương ứng 136% so với cùng kỳ 2023 (thời điểm trước khi triển khai). Với từng trường hợp đã xác định có phát sinh hoạt động kinh doanh TMĐT đến mức phải kê khai nộp thuế, cơ quan thuế đã thực hiện phân công đến từng cán bộ, công chức thuế để thực hiện tuyên truyền, hỗ trợ tối đa để hướng dẫn NNT thực hiện đăng ký, kê khai và nộp thuế đối với NSNN một cách dễ dàng nhất. Đối với những trường hợp cố tình trốn tránh nghĩa vụ thuế, đã được tuyên truyền giải thích mà không chấp hành, Cục Thuế cương quyết xử lý theo quy định pháp luật.

Với mục tiêu ngày càng nâng cao chất lượng phục vụ NNT, thì chuyển đổi số trong công tác quản lý nhà nước nói chung và công tác quản lý thuế nói riêng là một yêu cầu, nhiệm vụ hết sức quan trọng trong giai đoạn hiện nay, góp phần thực hiện tốt nhiệm vụ thu NSNN và xây dựng Thủ đô số đổi mới, sáng tạo, minh bạch.

VI. Ứng dụng công nghệ thông tin để phân tích dữ liệu, cảnh báo rủi ro sử dụng hóa đơn điện tử

Thời gian vừa qua ngành Thuế đã triển khai nhiều biện pháp nhằm kiểm soát hành vi gian lận thuế nhất là trong quản lý vi phạm về hóa đơrn điện tử (HĐĐT). Một trong những biện pháp nổi bật là sử dụng công nghệ thông tin để phân tích dữ liệu, cảnh báo rủi ro sử dụng HĐĐT thông qua Ứng dụng cảnh báo xuất HĐĐT.

1. Đối tượng bị cảnh báo

Ứng dụng cảnh báo xuất HĐĐT giúp cơ quan thuế theo dõi các dấu hiệu bất thường, phát hiện các hành vi có thể dẫn đến gian lận về thuế. Những đối tượng bị cảnh báo chủ yếu là các DN và hộ kinh doanh có đăng ký sử dụng HĐĐT và giá trị hàng hóa dịch vụ bán ra vượt quá giá trị hàng hóa dịch vụ mua vào (gồm giá trị hàng tồn kho, hàng nhập khẩu và giá trị mua vào trên HĐĐT).

Qua thời gian triển khai, Ứng dụng đã hỗ trợ đáng kể cơ quan thuế các cấp trong việc đưa ra nhận định về NNT có nhiều dấu hiệu nghi ngờ gian lận khi sử dụng hóa đơn để đưa vào kiểm tra, thanh tra thông qua việc rà soát, xử lý của công chức thuế đối với danh sách NNT thuộc diện cảnh báo.

Những dấu hiệu bất thường như bán hàng mà không có ghi nhận hàng tồn kho thực tế hoặc phát hành hóa đơn với giá trị hàng hóa bán ra quá lớn so với hàng hóa hiện có, xuất hóa đơn với doanh thu của các ngành nghề không thuộc ngành nghề đăng ký kinh doanh của DN… đã được cơ quan thuế phát hiện, giúp ngăn chặn kịp thời các hành vi phát hành hóa đơn khống hoặc hợp thức hóa các giao dịch bất hợp pháp.

2. Các biện pháp nghiệp vụ của cơ quan thuế

Căn cứ danh sách NNT thuộc diện cảnh báo sử dụng HĐĐT, cơ quan thuế sẽ áp dụng nhiều biện pháp nghiệp vụ theo quy định nhằm kiểm soát và xử lý các trường hợp được đánh giá là có rủi ro cao. Các biện pháp chính bao gồm:

  • Thứ nhất, cảnh báo và yêu cầu giải trình: Cán bộ thuế sẽ kiểm tra tính hợp lý của hóa đơn, đối chiếu, so sánh thông tin, dữ liệu của NNT với chính sách thuế, hồ sơ liên quan, tờ khai thuế, tình hình thực tế quản lý nếu phát hiện bất thường, cơ quan thuế sẽ yêu cầu DN giải trình​
  • Thứ hai, rà soát và kiểm tra thực tế: Cơ quan thuế có thể quyết định và thực hiện các cuộc kiểm tra thực tế tại cơ sở kinh doanh để xác minh tình hình hàng hóa tồn kho và đối chiếu với các thông tin trên hóa đơn. Điều này nhằm xác định DN có phát hành hóa đơn đúng quy định hay không? Có xuất khống hóa đơn hay không?…
  • Thứ ba, xác định việc được tiếp tục sử dụng hóa đơn hay không: Trong trường hợp DN bị phát hiện có hành vi phát hành hóa đơn khống hoặc gian lận, cơ quan thuế chuyển sang cơ quan Công an để phối hợp điều tra hoặc có thể sử dụng biện pháp quyết định tạm ngừng việc sử dụng HĐĐT của DN liên quan để ngăn chặn hành vi vi phạm tiếp diễn.

3. Thời điểm ứng dụng cảnh báo xuất hóa đơn điện tử sẽ cảnh báo người nộp thuế

Tổng cục Thuế luôn khuyến cáo và yêu cầu DN phải tuân thủ các quy định hiện hành về phát hành HĐĐT, đảm bảo rằng hóa đơn phản ánh đúng giá trị, thời điểm của giao dịch hàng hóa, dịch vụ. Việc phát hành hóa đơn khống hoặc sử dụng hóa đơn để hợp thức hóa các giao dịch gian lận có thể dẫn đến các rủi ro và hệ lụy rất nghiêm trọng.​

Thực tiễn cho thấy, việc phân tích và cảnh báo rủi ro bằng công nghệ thông tin và thực hiện tự động trên cơ sở dữ liệu hiện có của NNT trên hệ thống ngành Thuế, nên việc hệ thống đưa ra cảnh báo có thể chưa phù hợp hoàn toàn với thực tế kinh doanh của DN. Do vậy, DN lưu ý:

  • DN cần xác định và cập nhật chính xác ngành nghề kinh doanh chính trên hệ thống thuế và nếu có thay đổi về ngành nghề, DN cần thực hiện thủ tục cập nhật với cơ quan thuế và cơ quan đăng ký kinh doanh​, điều này giúp hệ thống tính toán chính xác hệ số cảnh báo.
  • Về quản lý hàng tồn kho chính xác, DN phải đảm bảo rằng số liệu hàng tồn kho luôn được cập nhật thường xuyên và chính xác. Việc quản lý lỏng lẻo hoặc không khớp giữa hàng tồn kho và số liệu khai báo dễ dẫn đến bị cảnh báo sử dụng HĐĐT, đồng thời có thể bị xử lý vi phạm quy định.​
  • Với báo cáo và giải trình, nếu nhận được cảnh báo từ cơ quan thuế cũng như yêu cầu giải trình theo quy định, DN cần cung cấp ngay các chứng từ chứng minh sự minh bạch trong kinh doanh. Các thông tin liên quan đến hóa đơn, hàng hóa, và doanh thu cần được giải trình đầy đủ và kịp thời.

4. Rủi ro khi bị phát hiện mua bán hoặc sử dụng hóa đơn bất hợp pháp

Việc mua bán hoặc sử dụng hóa đơn bất hợp pháp là hành vi vi phạm nghiêm trọng và có thể dẫn đến nhiều rủi ro cho DN. Các hình thức xử phạt khi bị phát hiện bao gồm:

  • Thứ nhất, phạt vi phạm hành chính: DN có thể bị phạt hành chính nếu bị phát hiện sử dụng hóa đơn giả hoặc hóa đơn không hợp pháp. Mức phạt cụ thể tùy thuộc vào mức độ vi phạm và giá trị gian lận được quy định cụ thể tại văn bản quy phạm pháp luật hiện hành.
  • Thứ hai, đình chỉ hoạt động kinh doanh: Trong một số trường hợp nghiêm trọng, DN có thể bị đình chỉ hoạt động kinh doanh tạm thời hoặc vĩnh viễn, gây thiệt hại lớn về tài chính và uy tín​.
  • Thứ ba, truy cứu trách nhiệm hình sự: Nếu hành vi mua bán hóa đơn nhằm mục đích gian lận thuế được phát hiện, những người liên quan có thể bị truy cứu trách nhiệm trước pháp luật.
  • Thứ tư, mất uy tín và ảnh hưởng khả năng kinh doanh, huy động vốn: Vi phạm về hóa đơn không chỉ gây thiệt hại tài chính mà còn ảnh hưởng đến uy tín của DN. Các ngân hàng và đối tác sẵn sàng từ chối cấp vốn hoặc hợp tác với các DN vi phạm.​

VII. Tiếp tục đẩy nhanh chuyển đổi số toàn diện trong công tác quản lý thuế Tiếp tục tăng cường xử lý nghiêm hành vi mua bán hóa đơn trên mạng xã hội

Trước tình trạng mua bán HĐĐT trên không gian mạng vẫn diễn ra công khai với chiều hướng phức tạp mặc dù đã có nhiều vụ án mua bán hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách đã bị xử lý hình sự. Trước tình hình đó, Tổng cục Thuế đã chỉ đạo cơ quan thuế các cấp tiếp tục tăng cường công tác phối hợp, đấu tranh ngăn chặn, xử lý hành vi mua bán HĐĐT trên mạng xã hội.

1. Nhiều DN gian lận hóa đơn bị khởi tố

Thực hiện quy định tại Luật Quản lý thuế, Nghị định số 123/2020/NĐ-CP, từ ngày 01/07/2022, các DN, tổ chức và cá nhân kinh doanh đã chuyển đổi sang sử dụng HĐĐT thay cho hóa đơn giấy truyền thống. Sau gần 2 năm triển khai, tính đến nay đã có 100% DN, tổ chức và hộ, cá nhân kinh doanh hạch toán theo phương pháp kê khai chuyển đổi sang sử dụng HĐĐT. Thống kê đến thời điểm này, cơ quan thuế đã tiếp nhận và xử lý khoảng 10,58 tỷ hóa đơn (trong đó 2,59 tỷ hóa đơn có mã và 6,97 tỷ hóa đơn không mã). Hệ thống HĐĐT đã vận hành ổn định, thông suốt 24/7 và đem lại lợi ích thiết thực cho người dân và DN

Cơ quan thuế tăng cường công tác phòng chống gian lận hoá đơn, đặc biệt là công tác phối hợp với cơ quan Công an. Kết quả:

  • Chỉ tính riêng năm 2023, công tác phối hợp với cơ quan Công an trong đấu tranh chống gian lận hoá đơn, cơ quan thuế đã chuyển hồ sơ sang cơ quan Công an kiến nghị điều tra, khởi tố: 88 hồ sơ; và cũng nhận được 4.416 yêu cầu cung cấp hồ sơ của cơ quan Công an đề nghị cung cấp hồ sơ, tài liệu liên quan đến lĩnh vực thuế của NNT phục vụ công tác quản lý, trấn áp tội phạm kinh tế của cơ quan Công an. Sau khi tiếp nhận đề nghị, cơ quan thuế đã kịp thời phối hợp cung cấp hồ sơ cho cơ quan Công an theo đúng quy định. Theo đó, nhiều vụ án gian lận hoá đơn đã bị xử lý như: Vụ án mua bán hóa đơn giá trị gia tăng (GTGT) không hợp pháp do Nguyễn Minh Tú cầm đầu; vụ án mua bán hóa đơn của đối tượng Trương Xuân Đước; vụ án Hoàng Đặng Ngọc Mỹ Trang và đồng phạm can tội “In, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn” và “Trốn thuế” …
  • Tuy nhiên, thời gian gần đây, tội phạm về thuế có chiều hướng gia tăng, hành vi mua bán hoá đơn ngày một tinh vi, gây khó khăn cho cơ quan chức năng. Các đối tượng lợi dung quy định trong đăng ký kinh doanh để thành lập một hoặc chuỗi DN, hộ kinh doanh thông qua việc sử dụng giấy chứng minh thư nhân dân/căn cước công dân của một số người thiếu hiểu biết, hám lợi, bị mất cắp hoặc giả mạo, hoạt động trong một chu kỳ ngắn rồi bỏ trốn, mất tích; Mua lại các DN, hộ kinh doanh hoạt động yếu kém, sắp giải thể, phá sản sau đó thay đổi người đại diện pháp luật với mục đích để bán hóa đơn không hợp pháp. Ngoài ra, các đối tượng thành lập DN, hộ kinh doanh tại các vùng, miền có sản phẩm trồng trọt, chăn nuôi, đánh bắt thuỷ hải sản, nguyên nhiên vật liệu,… nhằm hợp pháp hoá nguồn gốc hàng ghi trên các hóa đơn không hợp pháp, tránh nghi ngờ, kiểm soát của cơ quan chức năng.
  • Đặc biệt, các đối tượng đã lợi dụng sự phát triển của các mạng xã hội trên không gian mạng lập ra nhiều hội, nhóm, tài khoản trên các nền tảng mạng xã hội… nhằm mục đích rao bán các hóa đơn GTGT của các “DN ma” với nhiều loại mặt hàng khác nhau để thu lợi bất chính. Lợi dụng môi trường mạng, một số DN đã dễ dàng móc lối với các đối tượng rao bán hoá đơn để thực hiện hành vi mua hóa đơn không hợp pháp nhằm chiếm đoạt thuế của Nhà nước thông qua việc khai khấu trừ thuế GTGT đầu vào, giảm số thuế GTGT phải nộp NSNN; Sử dụng hóa đơn để hợp thức hóa cho hàng hóa trôi nổi, hợp thức hoá hàng buôn lậu, tham ô, lập khống chi phí phát sinh, làm giảm chi phí dẫn đến giảm thu nhập chịu thuế và thuế TNDN phải nộp NSNN; Sử dụng hóa đơn đầu vào để tăng số thuế được hoàn…

2. Cơ quan thuế tiếp tục tăng cường chống gian lận hóa đơn

Trước tình hình trên, trong thời gian qua, Tổng cục Thuế đã chỉ đạo cơ quan thuế các cấp tăng cường quản lý thuế, thanh tra, kiểm tra việc thực hiện pháp luật thuế của NNT; Tăng cường phối hợp với cơ quan chức năng trong công tác phòng, chống tội phạm trong lĩnh vực thuế như các hành vi trốn thuế, lừa đảo chiếm đoạt tiền hoàn thuế; mua, bán và sử dụng trái phép hoá đơn; chống thất thu cho NSNN, đảm bảo công bằng xã hội.

  • Thứ nhất, cơ quan Thuế đã xây dựng Bộ tiêu chí đánh giá rủi ro về HĐĐT (Quyết định số 1386/QĐ-TCT ngày 26/09/2024), phát triển các ứng dụng công nghệ thông tin để xử lý các dữ liệu về HĐĐT, hỗ trợ nhận diện được NNT có rủi ro cao về sử dụng HĐĐT để đưa ra cảnh báo, xử lý nếu có vi phạm hoặc chuyển sang cơ quan Công an đối với trường hợp thuộc diện rủi ro cao có dấu hiệu tội phạm để phối hợp điều tra và xử lý nếu phát hiện vi phạm.
  • Thứ hai, Tổng cục Thuế đã có Công văn số 4786/TCT-TTKT về việc ngăn chặn, xử lý tình trạng rao ban hóa đơn trên không gian mạng gửi Cục Thuế các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương triển khai quyết liệt các giải biện pháp. Cụ thể, đẩy mạnh thực hiện đồng bộ các giải pháp ngăn chặn tình trạng mua bán hóa đơn trên không gian mạng, chủ động thu thập thông tin về đối tượng rao bán hóa đơn trên không gian mạng trên địa bàn… Đồng thời, có biện pháp ngăn chặn việc phát tán, đăng tải các thông tin rao bán HĐĐT trên không gian mạng và kịp thời điều tra, xử lý các hành vi vi phạm pháp luật của các đối tượng.
  • Thứ ba, trong thời gian tới, Tổng cục Thuế chỉ đạo các Cục Thuế chủ động triển khai các giải pháp công nghệ thông tin nhằm thu thập, đánh giá và phân tích thông tin về hóa đơn trên không gian mạng. Bên cạnh đó, các cơ quan thuế cần đẩy mạnh tuyên truyền chính sách và pháp luật thuế trên các phương tiện thông tin đại chúng để người dân và DN hiểu rõ các chế tài xử lý đối với hành vi mua bán hóa đơn, nâng cao ý thức tự giác tuân thủ các quy định pháp luật về thuế và hóa đơn.
  • Thứ tư, cơ quan Thuế tiếp tục tăng cường công tác phối hợp thường xuyên, chặt chẽ hơn với cơ quan Công an và các cơ quan chức năng có liên quan như Hải quan, Ngân hàng,… để truy vết, xử lý NNT mua hóa đơn và xử lý triệt để tình trạng bao che cho những hành vi vi phạm pháp luật trong sử dụng hoá đơn. Trong thời gian tới, cơ quan thuế sẽ tiếp tục phối hợp cung cấp danh sách NNT có rủi ro cao về hóa đơn sang cơ quan Công an để tiến hành rà soát, điều tra, xử lý nghiêm nếu có vi phạm theo quy định của pháp luật. Bên cạnh công tác tăng cường phối hợp với cơ quan Công an trao đổi cung cấp thông tin khi ban hành các thông báo, các quyết định liên quan đến các tổ chức, cá nhân vi phạm pháp luật cho cơ quan thuế, Tổng cục Thuế cũng đang xây dựng ứng dụng cảnh báo xuất HĐĐT để hỗ trợ cơ quan thuế và cơ quan Công an phát hiện sớm và ngăn chặn kịp thời các hành vi gian lận HĐĐT, từ đó góp phần tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh trong sản xuất, kinh doanh.
  • Thứ năm, Tổng cục Thuế tiếp tục truyền thông sâu rộng trên các phương tiện thông tin đại chúng giúp người dân, DN nâng cao ý thức tuân thủ về nghĩa vụ chấp hành pháp luật thuế; chủ động cảnh báo kịp thời các hành vi vi phạm, tội phạm về thuế khi mua bán, sử dụng hóa đơn không hợp pháp để thu lợi bất chính, chiếm đoạt tiền thuế thì sẽ bị xử lý hành chính về thuế, thậm chí bị truy cứu trách nhiệm hình sự; công khai thông tin tổ chức, cá nhân có hành vi mua, bán, sử dụng hóa đơn không hợp pháp;… để góp phần cảnh tỉnh, răn đe các đối tượng đã và đang có ý định mua hóa đơn không hợp pháp nhằm mục đích trốn thuế.

VIII. Tiếp tục giảm 2% thuế giá trị gia tăng đến hết tháng 6/2025

Chiều 30/11/2025, Quốc hội khóa XV tiến hành phiên bế mạc, tiến hành biểu quyết thông qua Nghị quyết về chất vấn và trả lời chất vấn, Quốc hội khóa XV; thông qua Nghị quyết Kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XV.

Kết quả biểu quyết điện tử cho thấy, có 464/464 đại biểu Quốc hội tham gia biểu quyết tán thành, chiếm 96,87% tổng số đại biểu Quốc hội. Như vậy, với 100% đại biểu có mặt tham gia biểu quyết tán thành, Quốc hội đã chính thức thông qua Nghị quyết Kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XV.

Theo nghị quyết, Quốc hội đồng ý tiếp tiếp tục giảm 2% thuế VAT đối với các nhóm hàng hóa, dịch vụ quy định tại Nghị quyết số 43/2022/QH15 của Quốc hội về chính sách tài khóa, tiền tệ hỗ trợ Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế-xã hội. Cụ thể:

  • Việc giảm 2% VAT sẽ áp dụng đối với các nhóm hàng hóa, dịch vụ đang áp dụng mức thuế suất 10% (còn 8%).
  • Quy định này không áp dụng cho một số nhóm hàng hóa, dịch vụ gồm: Viễn thông, công nghệ thông tin, hoạt động tài chính, ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm, kinh doanh bất động sản, kim loại, sản phẩm từ kim loại đúc sẵn, sản phẩm khai khoáng (không kể khai thác than), than cốc, dầu mỏ tinh chế, sản phẩm hoá chất, sản phẩm hàng hóa và dịch vụ chịu thuế tiêu thụ đặc biệt.
  • Theo nghị quyết, thời gian giảm 2% thuế VAT sẽ được kéo dài thêm từ ngày 1/1/2025 đến hết ngày 30/6/2025. Hiện theo Nghị định 72 của Chính phủ, quy định giảm 2% thuế VAT với một số nhóm mặt hàng sẽ hết hiệu lực vào ngày 31/12/2024.

Như vậy, với nghị quyết mới được thông qua, việc giảm 2% thuế VAT sẽ được kéo dài thêm 6 tháng.

Quốc hội giao Chính phủ tổ chức thực hiện, chịu trách nhiệm bảo đảm nhiệm vụ thu và khả năng cân đối ngân sách nhà nước năm 2025 đã được Quốc hội quyết định.

IX. Sửa Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp đảm bảo công bằng, hợp lý, thúc đẩy phát triển

Tại phiên thảo luận của Quốc hội về dự án Luật Thuế TNDN (sửa đổi) sáng 28/11/2024, Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Hồ Đức Phớc cho biết, dự án Luật này được nghiên cứu xây dựng nhằm đảm bảo công bằng, hợp lý và thúc đẩy phát triển. Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Hồ Đức Phớc nhấn mạnh:

  • Thuế là nguồn thu chủ yếu của NSNN. Hiện nay, NSNN mỗi năm bội chi khoảng 400.000 tỷ đồng, trong thời gian tới, khi triển khai xây dựng các công trình hạ tầng trọng yếu, bội chi ngân sách sẽ tăng lên và nợ công cũng sẽ tăng lên. Xu thế của thế giới là hiện nay đang thắt chặt chính sách tài khóa, tức là tăng thuế suất để đảm bảo sự vững mạnh của tài chính công. Tuy nhiên, nước ta mới trải qua đại dịch Covid-19, nên vẫn thực hiện chính sách tài khóa mở rộng để hỗ trợ DN phát triển. Riêng về thuế TNDN, mức thuế hiện nay của Việt Nam so với các nước Đông Nam Á vẫn ở mức thấp nhất, như thuế suất của Philippines là 30%, Malaysia là 24% và các quốc gia khác là 25%… Do đó, chính sách thuế TNDN được sửa đổi để đảm bảo sự công bằng, hợp lý để phát triển. Đối với những lĩnh vực ưu tiên phát triển, cần phải hỗ trợ từ ngân sách thì phải giám sát để triển khai một cách hiệu quả, tránh mất kiểm soát. Nguyên tắc đối với thuế TNDN là mọi khoản thu nhập của DN là thu nhập chịu thuế, kể cả với các khoản thu sản xuất, kinh doanh và các khoản thu khác. DN nước ngoài không có địa chỉ thường trú tại Việt Nam nhưng mà có phát sinh các hoạt động tại Việt Nam, có thu nhập thì phải nộp thuế TNDN. Đối tượng này thời gian qua đã thực hiện thu thuế.
  • Liên quan ý kiến đại biểu về mức thuế là 15% đối với DN có doanh thu dưới 3 tỷ đồng và 17% đối với DN có doanh thu từ 3 tỷ đồng đến 50 tỷ đồng, Phó Thủ tướng, Bộ trưởng đề xuất Quốc hội giao cho Chính phủ điều chỉnh khi có biến động. Theo Phó Thủ tướng, Bộ trưởng tuổi thọ của Luật phải được nhiều năm nên khi có sự biến động về giá, Quốc hội sẽ giao cho Chính phủ quyết định. Bên cạnh đó, hiện nay DN vừa và nhỏ nước ta chiếm đến 97%. Do đó, mức thuế trên được xây dựng nhằm ưu đãi cho các DN này.
  • Với ý kiến đại biểu nêu về thuế đối với đơn vị sự nghiệp và cơ quan báo chí, Phó Thủ tướng, Bộ trưởng cho hay, đơn vị sự nghiệp có ba loại: đơn vị sự nghiệp do Nhà nước cấp kinh phí toàn bộ; tự chủ chi thường xuyên và tự chủ toàn diện. Đối với loại hình thứ 3 khi có doanh thu thì rõ ràng phải nộp thuế. Ví dụ như dịch vụ công trên địa bàn đặc biệt khó khăn được giảm 5% thuế; dịch vụ công sử dụng NSNN cũng không phải tính thuế… Vấn đề này đã được Chính phủ quy định cụ thể. Đối với cơ quan báo chí, thu nhập từ hoạt động báo in và các loại hình khác sẽ chịu mức thuế 10% nếu Quốc hội đồng ý, Chính phủ sẽ đề xuất như vậy để hỗ trợ các cơ quan báo chí. Ngoài ra, để hỗ trợ cơ quan báo chí hiện nay cũng có nhiều hình thức khác như đặt hàng, quảng cáo; đối với các cơ quan báo chí chưa tự chủ thì Nhà nước vẫn cấp kinh phí…
  • Liên quan đến chi phí được trừ khi tính thuế, Phó Thủ tướng, Bộ trưởng lưu ý, chi phí mà không hợp lệ, không hợp pháp thì đương nhiên không được trừ và chi phí này phải được minh bạch. Các chi phí vi phạm pháp luật không những không được trừ khi tính thuế mà còn phải bị xử lý. Vì vậy, tính đúng đắn, chính xác, kỹ về tính hợp lý, hợp pháp theo đúng quy định của luật chuyên ngành là phù hợp, đã được quản lý từ trước đến hiện nay và cần được tiếp tục triển khai trong tương lai.
  • Về thu thuế trên nền tảng số, ngành Tài chính luôn chú trọng ứng dụng công nghệ thông tin phục vụ công tác trong các lĩnh vực quản lý như: Hải quan, Thuế, Kho bạc… Hiện nay, ngành Tài chính cũng đang tập trung đưa Trí tuệ nhân tạo (AI) và công nghệ thông tin vào trong quản lý. Bộ Tài chính cũng vừa ra mắt ứng dụng trợ lý ảo để phục vụ cho NNT, ứng dụng này có thể giải đáp bất kỳ câu hỏi nào của NNT.

X. Nghiên cứu điều chỉnh mức giảm trừ gia cảnh cho phù hợp thực tiễn kinh tế, xã hội

Chính sách thuế thu nhập cá nhân là công cụ quan trọng trong việc điều tiết thu nhập, đảm bảo công bằng xã hội. Tuy nhiên, trong bối cảnh mức sống người dân và các chỉ số kinh tế vĩ mô có nhiều biến động, cần thiết phải điều chỉnh các quy định về giảm trừ gia cảnh, đóng góp từ thiện, nhân đạo và các khoản giảm trừ đặc thù khác để phù hợp hơn với thực tiễn.

Bộ Tài chính cho biết:

  • Theo Luật thuế thuế thu nhập cá nhân hiện hành, cá nhân trước khi nộp thuế được trừ các khoản bảo hiểm bắt buộc, mức giảm trừ gia cảnh, các khoản từ thiện, nhân đạo, và một số khoản phụ cấp, trợ cấp. Tuy nhiên, mức giảm trừ gia cảnh được quy định từ năm 2020, bao gồm 11 triệu đồng/tháng đối với NNT và 4,4 triệu đồng/tháng cho mỗi người phụ thuộc, đã không còn phù hợp với thực tiễn biến động kinh tế – xã hội hiện nay. Báo cáo khảo sát mức sống dân cư năm 2023 của Tổng cục Thống kê cho thấy thu nhập bình quân đầu người tại Việt Nam đạt 4,96 triệu đồng/tháng. So sánh với mức giảm trừ gia cảnh hiện hành, mức giảm trừ này cao hơn 2,21 lần thu nhập bình quân, tương đương với thu nhập của nhóm 20% dân số giàu nhất.
  • Thời gian qua, có ý kiến cho rằng mức giảm trừ gia cảnh vẫn còn thấp. Ngược lại cũng có ý kiến rằng mức giảm trừ gia cảnh hiện nay không thấp khi so sánh với mặt bằng chung về mức sống, thu nhập của người dân hiện nay, có nhiều người lao động hiện đang có thu nhập chưa đến mức phải nộp thuế. Ngoài ra, một số ý kiến cho rằng, cần quy định mức giảm trừ gia cảnh theo mức lương tối thiểu vùng, mức giảm trừ gia cảnh ở các đô thị, thành phố lớn cần phải cao hơn ở khu vực nông thôn, miền núi do chi phí đắt đỏ hơn; hoặc phải có chính sách thuế điều tiết cao hơn đối với cá nhân ở các đô thị, thành phố lớn để hạn chế nhập cư, di dân vào các đô thị lớn…
  • Bộ Tài chính lý giải, về bản chất, quy định về giảm trừ trước khi tính thuế đảm bảo nguyên tắc cá nhân cần phải có một mức thu nhập nhất định nhằm đáp ứng được nhu cầu thiết yếu của cuộc sống như: ăn, ở, đi lại, học tập, khám chữa bệnh…, vì thế, thu nhập trên ngưỡng này mới phải nộp thuế. Việc áp dụng các khoản giảm trừ còn hướng tới mục tiêu loại trừ các đối tượng có thu nhập thấp ra khỏi diện phải nộp thuế thuế thu nhập cá nhân. Mức giảm trừ gia cảnh cho NNT, người phụ thuộc của NNT theo quy định của pháp luật về thuế thuế thu nhập cá nhân là mức cụ thể theo mặt bằng chung của xã hội, không phân biệt người có thu nhập cao hay thấp, với nhu cầu tiêu dùng khác nhau. Cá nhân có khó khăn do thiên tai, hoả hoạn, tai nạn, bệnh hiểm nghèo thì Luật thuế thuế thu nhập cá nhân đã có quy định giảm thuế cho các trường hợp này.

Tại dự thảo Tờ trình đề nghị xây dựng dự án Luật thuế thu nhập cá nhân (thay thế), Bộ Tài chính đưa ra hai giải pháp:

  • Một là, rà soát, đánh giá lại để đề xuất phương án sửa đổi, bổ sung phù hợp với các điều kiện mới. Mức giảm trừ gia cảnh cụ thể cần được nghiên cứu, tính toán một cách kỹ lưỡng, đảm bảo cho phù hợp với sự biến động của giá cả cũng như sự gia tăng mức sống dân cư trong giai đoạn vừa qua cũng như dự báo cho thời gian tới đây, đồng thời không làm giảm vai trò của chính sách thuế thuế thu nhập cá nhân trong hệ thống thuế. Theo Bộ Tài chính, mức giảm trừ “quá cao” sẽ làm mờ vai trò của chính sách thuế thuế thu nhập cá nhân trong việc thực hiện các chức năng của sắc thuế này (đảm bảo công bằng xã hội và điều tiết thu nhập) và vô hình sẽ đưa chính sách thuế thuế thu nhập cá nhân trở lại “chính sách thuế đối với người có thu nhập cao” như giai đoạn trước đây. Đồng thời, có thể cân nhắc nghiên cứu phương án giao Chính phủ quy định mức giảm trừ gia cảnh để đảm bảo linh hoạt, chủ động điều chỉnh cho phù hợp với thực tiễn và yêu cầu phát triển kinh tế xã hội của đất nước trong từng thời kỳ.
  • Hai là, bổ sung các khoản đóng góp từ thiện, nhân đạo vào diện được giảm trừ khi tính thuế thu nhập cá nhân; nghiên cứu bổ sung các khoản giảm trừ đặc thù khác nhằm góp phần giảm gánh nặng thuế cho NNT.

Khẳng định cần thiết rà soát, nghiên cứu bổ sung các khoản giảm trừ đặc thù khác trước khi tính thuế cho cá nhân NNT, song theo Bộ Tài chính, phạm vi các khoản chi được giảm trừ, mức độ được giảm trừ đối với các khoản chi cần phải được cân nhắc, tính toán phù hợp để vừa đạt được mục tiêu đề ra nhưng cũng không làm giảm vai trò của chính sách thuế thu nhập cá nhân dưới phương diện là một công cụ điều tiết thu nhập, thực hiện phân phối lại.

XI. Bộ Tài chính đề nghị sửa đổi toàn diện Luật thuế thu nhập cá nhân

Bộ Tài chính đã có dự thảo Tờ trình đề nghị xây dựng dự án Luật thuế thu nhập cá nhân (thay thế). Theo đó, đã đến lúc cần phải rà soát để sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với bối cảnh kinh tế – xã hội trong nước cũng như xu thế cải cách chính sách thuế thu nhập cá nhân trên thế giới hiện nay.

1. Công cụ quan trọng thực hiện chính sách điều tiết, phân phối lại thu nhập

Bộ Tài chính cho biết:

  • Luật thuế thu nhập cá nhân hiện hành được Quốc hội khóa XII tại Kỳ họp thứ 2 thông qua ngày 21/11/2007, thay thế Pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao và chính thức có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2009. Trong quá trình thực hiện, để tháo gỡ kịp thời những vướng mắc phát sinh, phù hợp với điều kiện kinh tế – xã hội trong từng giai đoạn, Quốc hội đã ban hành Luật số 26/2012/QH13 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế thu nhập cá nhân áp dụng từ ngày 01/7/2013 và Luật số 71/2014/QH13 sửa đổi, bổ sung một số điều của các Luật về thuế (trong đó có Luật thuế thu nhập cá nhân) áp dụng từ ngày 01/01/2015.
  • Ngoài ra, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cũng đã ban hành Nghị quyết số 954/2020/UBTVQH14 ngày 02/06/2020 về điều chỉnh mức giảm trừ gia cảnh của thuế thu nhập cá nhân, áp dụng từ kỳ tính thuế năm 2020.
  • Qua đánh giá kết quả thực hiện thời gian qua, có thể thấy, chính sách thuế thu nhập cá nhân đã thể hiện và phát huy được vai trò là công cụ quan trọng trong việc thực hiện chính sách điều tiết, phân phối lại thu nhập, từng bước thu hẹp khoảng cách chênh lệch về thu nhập giữa các cá nhân trong xã hội, hướng tới công bằng xã hội theo chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước.
  • Tuy nhiên, Bộ Tài chính nhận thấy rằng, trong tiến trình phát triển, hội nhập những năm gần đây và do sự biến động nhanh của kinh tế – chính trị thế giới nói chung và nền kinh tế Việt Nam nói riêng, Luật thuế thu nhập cá nhân hiện hành cũng đã phát sinh một số điểm hạn chế, bất cập cần được nghiên cứu để rà soát, sửa đổi cho phù hợp với thực tiễn. Việc này nhằm đáp ứng được các yêu cầu về cải cách thuế thu nhập cá nhân đang đặt ra, đảm bảo tính minh bạch, bao gồm:
    • Các quy định liên quan đến thu nhập chịu thuế; thu nhập được miễn thuế; cơ sở tính thuế và phương pháp xác định số thuế phải nộp đối với một số khoản thu nhập; biểu thuế suất thuế thu nhập cá nhân đối với thu nhập từ tiền lương, tiền công; mức giảm trừ gia cảnh cho NNT và người phụ thuộc. Bên cạnh đó, một số quy định của Luật thuế thu nhập cá nhân hiện hành cũng cần phải được điều chỉnh cho phù hợp với quy định của Luật Đất đai năm 2024, qua đó, đảm bảo tính đồng bộ của hệ thống pháp luật.
    • Một số quy định về phạm vi, đối tượng chịu thuế trong Luật thuế thu nhập cá nhân chưa bao quát được các khoản thu nhập chịu thuế mới phát sinh; mức điều tiết thu nhập của một số loại thu nhập qua quá trình thực hiện cũng đã bộc lộ vướng mắc nên cần phải có những sự điều chỉnh cho phù hợp với xu hướng cải cách thuế quốc tế hiện nay và trong mối tương quan với các nguồn thu nhập khác nhau của cá nhân để thực hiện mở rộng cơ sở thuế và đảm bảo động viên hợp lý nguồn lực cho NSNN.
    • Đáng chú ý, nguyên tắc của các hiệp định thuế và sự xuất hiện của những khoản thu nhập phát sinh qua các mô hình kinh doanh mới, hoạt động TMĐT qua biên giới cũng đang đặt ra một số yêu cầu đối với việc hoàn thiện hệ thống chính sách thuế thu nhập cá nhân. Gần đây, nhiều quốc gia trên thế giới, bao gồm cả các nước phát triển và đang phát triển đã liên tục đưa ra các biện pháp cải cách về chính sách thuế thu nhập cá nhân để thích ứng với các xu thế này.

2. Thực hiện động viên hợp lý, hiệu quả nguồn lực cho ngân sách Nhà nước

Từ thực trạng đó, Bộ Tài chính cho rằng:

  • Luật thuế thu nhập cá nhân hiện hành cần phải được rà soát để sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với bối cảnh kinh tế – xã hội trong nước những năm tới đây cũng như xu thế cải cách chính sách thuế thu nhập cá nhân trên thế giới hiện nay. Qua đó, góp phần phát huy hiệu quả vai trò của sắc thuế này trong tổng thể hệ thống chính sách thuế của Việt Nam; thực hiện động viên hợp lý, hiệu quả nguồn lực cho NSNN để cùng với các nguồn lực khác đáp ứng ngày càng tốt hơn các nhiệm vụ chi NSNN, nhất là chi cho công tác xóa đói, giảm nghèo, đảm bảo an sinh xã hội và hỗ trợ cho các địa phương khó khăn.
  • Việc xây dựng dự án Luật thuế thu nhập cá nhân (thay thế) hướng tới mục tiêu chung là đảm bảo phù hợp với các quan điểm, mục tiêu, định hướng về cải cách thuế thu nhập cá nhân đã được xác định trong các Văn kiện, Nghị quyết của Đảng, Nhà nước và Chiến lược cải cách hệ thống thuế đến năm 2030. Đồng thời, thực hiện có hiệu quả chính sách phân phối lại và mục tiêu công bằng xã hội, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội cũng như thúc đẩy cải cách thủ tục hành chính và giảm chi phí tuân thủ cho NNT và cơ quan thuế.
  • Tại dự thảo Tờ trình đề nghị xây dựng dự án Luật thuế thu nhập cá nhân (thay thế), Bộ Tài chính sẽ mở rộng cơ sở thuế; rà soát sửa đổi, bổ sung các quy định về NNT, thu nhập chịu thuế; nghiên cứu điều chỉnh ngưỡng cũng như mức thuế suất thuế thu nhập cá nhân đối với một số loại thu nhập để đảm bảo phù hợp với bản chất của từng loại thu nhập và mục tiêu điều tiết của thuế thu nhập cá nhân. Đồng thời, nghiên cứu điều chỉnh mức giảm trừ gia cảnh đối với NNT và người phụ thuộc cho phù hợp với bối cảnh mới; giảm số bậc thuế của Biểu thuế suất lũy tiến từng phần áp dụng đối với thu nhập từ tiền lương, tiền công.

Bộ Tài chính khẳng định, Dự án Luật thuế thu nhập cá nhân (thay thế) sẽ được kế thừa và phát huy những quy định đã mang lại tác động tích cực đến kinh tế – xã hội của Luật thuế thu nhập cá nhân hiện hành. Đồng thời, sửa đổi, bổ sung những quy định đang là vướng mắc, không còn phù hợp để kịp thời giải quyết những vấn đề bất cập phát sinh trong thực tế, đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của cá nhân, người lao động cũng như yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội của Đất nước.

XII. Chuẩn bị vận hành Cổng Thông tin điện tử hỗ trợ cá nhân, hộ kinh doanh thương mại điện tử

Hiện nay, hoạt động kinh doanh của hộ kinh doanh và cá nhân kinh doanh đang ngày càng mở rộng, vượt ra khỏi các mô hình truyền thống. Không chỉ còn gói gọn trong các cửa hàng, cửa hiệu hoặc địa điểm cố định, nhiều cá nhân và hộ kinh doanh đã áp dụng các hình thức kinh doanh mới như hợp tác kinh doanh với tổ chức, kinh doanh theo mô hình kinh tế chia sẻ, hoặc cung cấp dịch vụ nội dung thông tin số xuyên biên giới. Trong bối cảnh đó, ngành Thuế đang đứng trước yêu cầu cấp thiết phải đổi mới phương thức quản lý, đồng hành cùng NNT để hỗ trợ họ thực hiện đầy đủ nghĩa vụ một cách nhanh chóng và thuận tiện nhất.

Nhận thức rõ thách thức và cơ hội từ sự phát triển của TMĐT, Tổng cục Thuế đã báo cáo Bộ Tài chính và được phê duyệt triển khai Cổng TTĐT dành riêng cho hộ kinh doanh và cá nhân kinh doanh. Cổng TTĐT này được thiết kế nhằm tạo điều kiện tối đa cho NNT trong việc đăng ký, kê khai và nộp thuế, đồng thời đáp ứng các yêu cầu quản lý thuế hiện đại và minh bạch.

  • Cổng TTĐT sẽ được tích hợp năm chức năng chính: Đăng nhập (Giúp người dùng truy cập vào hệ thống an toàn, bảo mật); Đăng ký thuế (Hỗ trợ đăng ký mã số thuế một cách dễ dàng, nhanh chóng); Kê khai (Tạo điều kiện cho NNT kê khai thông tin chính xác); Nộp thuế (Đơn giản hóa quy trình nộp thuế trực tuyến); Tra cứu (Cho phép NNT tra cứu thông tin thuế và nghĩa vụ liên quan).
  • Ngoài ra, Cổng còn cung cấp các tiện ích bổ sung như: Hướng dẫn sử dụng chi tiết để NNT dễ dàng làm quen và thao tác; Tính năng phản hồi và hỗ trợ giúp NNT gửi ý kiến, thắc mắc trực tiếp đến cơ quan thuế.
    Trước khi chính thức đưa vào sử dụng, Lãnh đạo Tổng cục Thuế đã yêu cầu các đơn vị nghiệp vụ và Cục Thuế địa phương tiếp tục đóng góp ý kiến dựa trên thực tiễn quản lý thuế tại địa phương. Điều này nhằm bảo đảm Cổng TTĐT không chỉ đáp ứng nhu cầu kỹ thuật mà còn phù hợp với đặc thù kinh doanh của từng khu vực.

Cổng TTĐT dành cho hộ kinh doanh và cá nhân kinh doanh TMĐT được kỳ vọng sẽ trở thành một bước tiến lớn trong công tác hiện đại hóa quản lý thuế, giúp giảm thiểu thời gian, chi phí cho NNT đồng thời nâng cao hiệu quả quản lý cho cơ quan thuế. Với sự đồng hành từ các đơn vị nghiệp vụ và sự tiếp thu ý kiến từ thực tiễn, Cổng TTĐT hứa hẹn sẽ là công cụ hỗ trợ đắc lực, góp phần thúc đẩy sự phát triển bền vững của nền kinh tế số tại Việt Nam.

XIII. Sửa Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt để điều tiết tiêu dùng phù hợp

Dự thảo Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt (sửa đổi) có nhiều quy định mới nhằm điều tiết tiêu dùng phù hợp với xu hướng tiêu dùng trong xã hội và định hướng của Đảng và Nhà nước về bảo vệ sức khỏe của nhân dân, bảo vệ môi trường.

1. Góp phần điều tiết tiêu dùng

Tại phiên họp sáng 22/11/2024 của Quốc hội, Phó Thủ tướng Chính phủ Lê Thành Long đã trình bày Tờ trình về dự án Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt (sửa đổi). Theo Phó Thủ tướng, cần thiết ban hành Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt nhằm thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước về hoàn thiện chính sách thu theo hướng mở rộng cơ sở thuế; sửa đổi, bổ sung để điều tiết tiêu dùng phù hợp với xu hướng tiêu dùng trong xã hội và định hướng của Đảng và Nhà nước về bảo vệ sức khỏe của Nhân dân, bảo vệ môi trường.

Dự án Luật cũng sửa đổi, bổ sung để đáp ứng những yêu cầu từ thực tiễn phát sinh, tạo môi trường pháp luật thống nhất và đồng bộ áp dụng trong nền kinh tế, khắc phục những hạn chế, bất cập của Luật thuế tiêu thụ đặc biệt hiện hành. Đồng thời, phù hợp với xu hướng cải cách thuế tiêu thụ đặc biệt của các nước. Trong đó:

  • Đối với mặt hàng thuốc lá theo quy định của Luật Phòng, chống tác hại của thuốc lá, Dự thảo Luật giữ nguyên mức thuế suất 75% và bổ sung mức thuế tuyệt đối theo lộ trình tăng từng năm trong giai đoạn từ năm 2026 đến năm 2030. Qua đó, góp phần đạt mục tiêu giảm tỷ lệ sử dụng thuốc lá trong nhóm nam từ 15 tuổi trở lên xuống dưới 36% trong giai đoạn 2026 – 2030 theo Chiến lược quốc gia về phòng, chống tác hại của thuốc lá và hướng tới đạt tỷ trọng thuế trên giá bán lẻ thuốc lá theo khuyến nghị của WHO (75%) với 02 phương án, trong đó Chính phủ nghiêng về phương án 2. Theo đó:
    • Đối với thuốc lá điếu là 5.000 đồng/bao (từ năm 2026), 6.000 đồng/bao (từ năm 2027), 7.000 đồng/bao (từ năm 2028), 8.000 đồng/bao (từ năm 2029), 10.000 đồng/bao (từ năm 2030). Đối với xì gà là 50.000 đồng/điếu (từ năm 2026), 60.000 đồng/điếu (từ năm 2027), 70.000 đồng/điếu (từ năm 2028), 80.000 đồng/điếu (từ năm 2029), 100.000 đồng/điếu (từ năm 2030).
    • Đối với thuốc lá sợi, thuốc lào hoặc các dạng khác dùng để hút, hít, nhai, ngửi, ngậm là 50.000 đồng/100g hoặc 100ml (từ năm 2026), 60.000 đồng/100g hoặc 100ml (từ năm 2027), 70.000 đồng/100g hoặc 100ml (từ năm 2028), 80.000 đồng/100g hoặc 100ml (từ năm 2029), 100.000 đồng/100g hoặc 100ml (từ năm 2030).
    • Theo Phó Thủ tướng, lộ trình tăng mức thuế tuyệt đối tại dự thảo Luật đã được cân nhắc tính toán trên cơ sở các yếu tố như giá thuốc lá tại Việt Nam đang ngày càng rẻ so với thu nhập, dẫn đến sức mua thuốc lá tăng; Gánh nặng chi phí y tế liên quan đến bệnh tật do thuốc lá gây ra… Theo Phương án 2, tỷ lệ hút thuốc ở nam giới giảm từ 42,1% (2025) xuống còn 39,7% vào năm 2026 và đến năm 2030 giảm xuống còn 38,5%. Tỷ trọng thuế trên giá bán lẻ tăng từ 36% (2025) lên 52,4% vào năm 2026 và đến năm 2030 tăng lên 59,4%. Như vậy, phương án này có khả năng giảm tiêu thụ nhanh hơn, sớm hơn và ở mức độ lớn hơn.
  • Đối với mặt hàng rượu, bia, Dự thảo quy định thuế suất theo tỷ lệ phần trăm tăng theo lộ trình từng năm trong giai đoạn từ năm 2026-2030 để đạt mục tiêu tăng giá bán rượu, bia ít nhất 10% theo khuyến nghị tăng thuế của WHO. Trong đó, đối với mặt hàng rượu từ 20 độ trở lên, phương án 1 là tăng thuế suất từ mức hiện hành 65% lên 70%, 75%, 80%, 85%, 90% theo từng năm trong giai đoạn từ năm 2026-2030; phương án 2 là tăng thuế suất từ mức hiện hành 65% lên 80%, 85%, 90%, 95%, 100% theo từng năm trong giai đoạn từ năm 2026-2030.
    • Đối với mặt hàng rượu dưới 20 độ, phương án 1 là tăng thuế suất từ mức hiện hành 35% lên 40%, 45%, 50%, 55%, 60% theo từng năm trong giai đoạn từ năm 2026-2030; phương án 2 là tăng thuế suất từ mức hiện hành 35% lên 50%, 55%, 60%, 65%, 70% theo từng năm trong giai đoạn từ năm 2026-2030.
    • Đối với mặt hàng bia, phương án 1 tăng thuế suất từ mức hiện hành 65% lên 70%, 75%, 80%, 85%, 90% theo từng năm trong giai đoạn từ năm 2026-2030. Phương án 2 tăng thuế suất từ mức hiện hành 65% lên 80%, 85%, 90%, 95%, 100% theo từng năm trong giai đoạn từ năm 2026-2030.
  • Đối với mặt hàng xe có động cơ dưới 24 chỗ, Dự thảo sửa đổi, bổ sung mô tả và mức thuế suất thuế tiêu thụ đặc biệt đối với một số mặt hàng xe ô tô thân thiện với môi trường như sau:
    • Xe ô tô chạy bằng xăng kết hợp năng lượng điện (xe nạp điện bằng hệ thống sạc điện riêng), xe ô tô chạy bằng xăng kết hợp năng lượng sinh học, trong đó tỷ trọng xăng sử dụng không quá 70% số năng lượng sử dụng do Chính phủ quy định, xe ô tô chạy bằng khí thiên nhiên bằng 70% mức thuế suất áp dụng cho xe cùng loại.
    • Bên cạnh đó, sửa đổi, bổ sung mô tả mặt hàng ô tô, quy định rõ thuế suất đối với xe ô tô pick-up chở người thuộc nhóm xe ô tô chở người và xe bốn bánh chở người có gắn động cơ từ 9 chỗ trở xuống. Áp dụng thuế suất phù hợp (bằng 60% mức thuế suất áp dụng cho xe chở người) đối với xe ô tô pick-up chở hàng cabin kép, xe ô tô tải VAN có từ hai hàng ghế trở lên.
  • Đối với nước giải khát theo Tiêu chuẩn Việt Nam có hàm lượng đường trên 5g/100ml, Dự thảo quy định mức thuế suất là 10% do đây là mặt hàng mới bổ sung vào đối tượng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt.

2. Nghiên cứu mức thuế cao hơn với nước giải khát

Về quy định đối với mặt hàng nước giải khát theo Tiêu chuẩn Việt Nam, có hàm lượng đường trên 5g/100ml, đa số ý Ủy ban Tài chính Ngân sách kiến nhất trí với đề xuất của Chính phủ về việc áp dụng mức thuế suất 10% đối với mặt hàng này.

Tuy nhiên, một số ý kiến cho rằng, mức thuế suất 10% là khá thấp, có thể không đủ để tác động, thay đổi thói quen tiêu dùng của người dân, dẫn đến không đạt được mục tiêu đặt ra trong ban hành chính sách. Do đó, cần cân nhắc để đề xuất mức thuế cao hơn để đạt được mục tiêu điều tiết tiêu dùng, bảo vệ sức khỏe người dân.

XIV. Quốc hội thông qua 1 luật sửa 9 luật: “Chốt” hàng loạt quy định quan trọng cấp thiết về tài chính

Chiều 29/11/2024, với 445/450 đại biểu tán thành, Quốc hội đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chứng khoán; Luật Kế toán; Luật Kiểm toán độc lập; Luật Ngân sách nhà nước; Luật Quản lý, sử dụng tài sản công; Luật Quản lý thuế; Luật Thuế thu nhập cá nhân; Luật Dự trữ quốc gia; Luật Xử lý vi phạm hành chính.

Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính – Ngân sách Lê Quang Mạnh cho biết:

  • Quá trình giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật, một số nội dung sửa đổi, bổ sung của Luật Kiểm toán độc lập liên quan đến các quy định Luật Xử lý vi phạm hành chính; sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quản lý thuế liên quan đến các quy định của Luật Thuế thu nhập cá nhân.
  • Do vậy, Ủy ban Thường vụ Quốc hội báo cáo Quốc hội xem xét bổ sung nội dung sửa đổi hai luật trên và sửa đổi tên gọi của dự thảo Luật này. Đó là “Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chứng khoán, Luật Kế toán, Luật Kiểm toán độc lập, Luật Ngân sách nhà nước, Luật Quản lý, sử dụng tài sản công, Luật Quản lý thuế, Luật Thuế thu nhập cá nhân, Luật Dự trữ quốc gia, Luật Xử lý vi phạm hành chính”.
  • Trong quá trình thẩm tra nội dung sửa đổi, bổ sung Luật Chứng khoán cũng như các ý kiến của Đại biểu quốc hội phát biểu tại Tổ và Hội trường, có 2 nội dung còn có ý kiến nhiều chiều. Đó là nội dung về: (1) Báo cáo về vốn điều lệ và (2) việc ngân hàng thương mại tham gia làm thành viên bù trừ, thanh toán giao dịch cho các chứng khoán giao dịch trên hệ thống giao dịch chứng khoán. Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã chỉ đạo các cơ quan, tiếp thu, chỉnh lý quy định về 2 nội dung này tại dự thảo Luật, theo hướng quy định trong luật mang tính nguyên tắc và giao Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Tài chính quy định cụ thể bảo đảm tính khả thi.

Bạn đang cần tư vấn thiết kế website bán hàng chuyên nghiệp , tham khảo dịch vụ của NKS nhé

NKS - Công ty TNHH Giải pháp Công nghệ Tri Thức Mới

20 năm tư vấn và cung cấp giải pháp xây dựng thương hiệu toàn diện trên Internet

222 Lê Văn Sỹ, Phường 14, Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam

Email: system@nks.vn

Website: https://nks.com.vn

Hotline: 0932030958

Mục lục
Menu