I. Thông báo thời hạn nộp tờ khai thuế trong kỳ kê khai Tháng 09/2024 và kỳ kê khai Quý III/2024
Bkav xin thông báo hạn nộp hồ sơ khai thuế trong kỳ kê khai Tháng 09/2024 và kỳ kê khai Quý III/2024 như sau:
- Hồ sơ khai thuế của kỳ kê khai Tháng 09/2024: Do ngày cuối của kỳ kê khai Tháng 09/2024 trùng với Chủ nhật (ngày 20/10/2024) nên theo Quy định tại Điều 86 Thông tư số 80/2020/TT-BTC “Trường hợp thời hạn nộp hồ sơ khai thuế, thời hạn nộp thuế trùng với ngày nghỉ theo quy định thì thời hạn nộp hồ sơ khai thuế, thời hạn nộp thuế được tính là ngày làm việc tiếp theo của ngày nghỉ đó theo quy định tại Bộ Luật dân sự”, như vậy thời hạn nộp hồ sơ khai thuế của kỳ kê khai thuế Tháng 09/2024 là Thứ Hai, ngày 21/10/2024.
- Hồ sơ khai thuế của kỳ kê khai Quý III/2024: Hết hạn nộp vào Thứ Năm, ngày 31/10/2024.
Bkav lưu ý Quý Khách hàng nên kê khai, nộp tờ khai sớm trước thời gian hết hạn ít nhất từ 1 đến 2 ngày để tránh việc quá tải, không gửi được tờ khai.
II. Thông báo nâng cấp ứng dụng Hỗ trợ kê khai (HTKK) phiên bản 5.2.3 đáp ứng Nghị quyết số 1104/NQ-UBTVQH15 và Thông tư số 43/2024/TT-BTC
Tổng cục Thuế thông báo nâng cấp ứng dụng Hỗ trợ kê khai (HTKK) phiên bản 5.2.3, đáp ứng Nghị quyết số 1104/NQ-UBTVQH15 ngày 23/07/2024 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về việc sắp xếp đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã giai đoạn 2023 – 2025 của tỉnh Nam Định, đáp ứng Thông tư số 43/2024/TT-BTC ngày 28/06/2024 của Bộ Tài chính quy định mức thu một số khoản phí, lệ phí nhằm tiếp tục tháo gỡ khó khăn, hỗ trợ cho hoạt động sản xuất kinh doanh, đồng thời cập nhật các nội dung phát sinh trong quá trình triển khai HTKK 5.2.2, cụ thể như sau:
1. Cập nhật địa bàn hành chính tỉnh Nam Định đáp ứng Nghị quyết số 1104/NQ-UBTVQH15
Hết hiệu lực “Huyện Mỹ Lộc” (mã 11305), sáp nhập vào Thành phố Nam Định (mã 11301)
- Cập nhật địa bàn hành chính cấp xã thuộc Thành phố Nam Định như sau:
- Đổi tên “Xã Nam Phong” thành “Phường Nam Phong” (mã 1130139)
- Đổi tên “Xã Nam Vân” thành “Phường Nam Vân” (mã 1130109)
- Hết hiệu lực “Xã Mỹ Hưng” (mã 1130517) và “Thị trấn Mỹ Lộc” (mã 1130507), sáp nhập thành “Phường Hưng Lộc” (mã 1130151)
- Hết hiệu lực “Xã Lộc An” (mã 1130143) và “Phường Văn Miếu”, sáp nhập vào “Phường Trường Thi” (mã 1130119)
- Hết hiệu lực “Phường Hạ Long” (mã 1130147) và “Phường Thống Nhất” (mã 1130105), sáp nhập vào Phường Quang Trung (mã 1130113)
- Hết hiệu lực “Phường Trần Tế Xương” (mã 1130149) và “Phường Vị Hoàng”, sáp nhập vào “Phường Vị Xuyên” (mã 1130145)
- Hết hiệu lực “Phường Phan Đình Phùng” (mã 1130121) và “Phường Nguyễn Du”, sáp nhập vào Phường Trần Hưng Đạo (mã 1130125)
- Hết hiệu lực “Phường Ngô Quyền” (mã 1130123) và “Phường Trần Quang Khải” (mã 1130103), sáp nhập vào Phường Năng Tĩnh (mã 1130129)
- Hết hiệu lực “Phường Bà Triệu” (mã 1130101) và “Phường Trần Đăng Ninh” (mã 1130127), sáp nhập vào “Phường Cửa Bắc” (mã 1130115)
- Hết hiệu lực “Xã Mỹ Thành” (mã 1130521), “Xã Mỹ Thịnh” (mã 1130519), “Xã Mỹ Tiến” (mã 1130511); sáp nhập thành Xã Mỹ Lộc (mã 1130153)
- Cập nhật địa bàn hành chính cấp xã thuộc huyện Vụ Bản như sau:
- Hết hiệu lực “Xã Tân Khánh” (mã 1130339) và “Xã Minh Thuận” (mã 1130311), sáp nhập vào “Xã Minh Tân” (mã 1130349)
- Hết hiệu lực “Xã Tân Thành” (mã 1130343) và “Xã Liên Bảo” (mã 1130307), sáp nhập vào “Xã Thành Lợi” (mã 1130351)
- Cập nhật địa bàn hành chính cấp xã thuộc huyện Ý Yên như sau:
- Hết hiệu lực “Xã Yên Thành” (mã 1130707), “Xã Yên Nghĩa” (mã 1130709), “Xã Yên Trung” (mã 1130725); sáp nhập thành “Xã Trung Nghĩa” (mã 1130765)
- Hết hiệu lực “Xã Yên Hưng” (mã 1130741), “Xã Yên Phú” (mã 1130737), “Xã Yên Phương” (mã 1130733); sáp nhập thành “Xã Phú Hưng” (mã 1130767)
- Hết hiệu lực “Xã Yên Minh” (mã 1130731), “Xã Yên Lợi” (mã 1130701), “Xã Yên Tân” (mã 1130727); sáp nhập thành “Xã Tân Minh” (mã 1130769)
- Hết hiệu lực “Xã Yên Quang” (mã 1130751), “Xã Yên Hồng” (mã 1130749), “Xã Yên Bằng” (mã 1130757); sáp nhập thành “Xã Hồng Quang” (mã 1130771)
- Cập nhật địa bàn hành chính cấp xã thuộc huyện Nam Trực như sau:
- Hết hiệu lực “Xã Nam Toàn” (mã 1130917), “Xã Nam Mỹ” (mã 1130905), “Xã Điền Xá” (mã 1130937); sáp nhập thành “Xã Nam Điền” (mã 1130941)
- Cập nhật địa bàn hành chính cấp xã thuộc huyện Xuân Trường như sau:
- Hết hiệu lực “Xã Xuân Đài” (mã 1131321), “Xã Xuân Phong” (mã 1131307), “Xã Xuân Thủy” (mã 1131325); sáp nhập thành “Xã Xuân Giang” (mã 1131341)
- Hết hiệu lực “Xã Xuân Hòa” (mã 1131339), “Xã Xuân Kiên” (mã 1131335), “Xã Xuân Tiến” (mã 1131313); sáp nhập thành “Xã Xuân Phúc” (mã 1131343)
- Hết hiệu lực “Xã Xuân Bắc” (mã 1131327), “Xã Xuân Trung” (mã 1131303), “Xã Xuân Phương” (mã 1131329); sáp nhập thành “Xã Trà Lũ” (mã 1131345)
- Cập nhật địa bàn hành chính cấp xã thuộc huyện Nghĩa Hưng như sau:
- Hết hiệu lực “Xã Nghĩa Bình” (1131713) và “Xã Nghĩa Tân” (1131739), sáp nhập vào “Thị trấn Quỹ Nhất” (mã 1131737)
- Hết hiệu lực “Xã Nghĩa Minh” (mã 1131723), “Xã Nghĩa Đồng” (mã 1131701), “Xã Nghĩa Thịnh” (mã 1131721); sáp nhập thành “Xã Đồng Thịnh” (mã 1131755)
- Cập nhật địa bàn hành chính cấp xã thuộc huyện Hải Hậu như sau:
- Hết hiệu lực “Xã Hải Bắc” (mã 1131941) và “Xã Hải Phương” (mã 1131903); sáp nhập vào “Thị trấn Yên Định” (mã 1131919)
- Hết hiệu lực “Xã Hải Chính” (mã 1131969) và “Xã Hải Lý” (mã 1131961); sáp nhập vào “Thị trấn Cồn” (mã 1131931)
- Hết hiệu lực “Xã Hải Hà” (mã 1131917) và “Xã Hải Thanh” (mã 1131945); sáp nhập vào “Xã Hải Hưng” (mã 1131923)
- Hết hiệu lực “Xã Hải Triều” (mã 1131925) và “Xã Hải Cường” (mã 1131965), sáp nhập vào Xã Hải Xuân (mã 1131915)
- Hết hiệu lực “Xã Hải Vân” (mã 1131935) và “Xã Hải Phúc” (mã 1131943), sáp nhập vào “Xã Hải Nam” (mã 1131933)
- Cập nhật địa bàn hành chính cấp xã thuộc huyện Giao Thủy như sau:
- Hết hiệu lực “Xã Hoành Sơn” (mã 1131521), “Xã Giao Tiến” (mã 1131525), “Thị trấn Ngô Đồng” (mã 1131515); sáp nhập thành “Thị trấn Giao Thủy” (mã 1131545)
2. Nâng cấp danh mục phí, lệ phí đáp ứng Thông tư số 43/2024/TT-BTC
Cập nhật danh mục phí, lệ phí tại mục “Phí/Lệ phí thu theo các Thông tư hỗ trợ tháo gỡ khó khăn” đáp ứng Thông tư số 43/2024/TT-BTC trên các tờ khai:
- Tờ khai phí – mẫu 01/PH (TT80/2021)
- Tờ khai quyết toán phí – mẫu 02/PH (TT80/2021)
- Tờ khai lệ phí – mẫu 01/LP (TT80/2021)
3. Cập nhật các nội dung phát sinh
- Tờ khai thuế đối với hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh – mẫu 01/CNKD (TT40/2021): Cập nhật nhận dữ liệu từ bảng kê excel đối với mẫu 01-1/BK-CNKD
- Tờ khai thuế thu nhập cá nhân – mẫu 04/CNV-TNCN (TT80/2021): Cập nhật nếu tích chọn “Khai thay cho nhiều cá nhân chuyển nhượng vốn góp” hoặc “Khai thay cho nhiều cá nhân chuyển nhượng chứng khoán” thì khóa không cho phép nhập mục II – Thông tin tổ chức, cá nhân nhận chuyển nhượng vốn góp, nhận chuyển nhượng chứng khoán
Tổ chức, cá nhân nộp thuế có thể tải bộ cài và tài liệu hướng dẫn sử dụng ứng dụng HTKK tại địa chỉ sau: http://www.gdt.gov.vn/wps/portal/home/hotrokekhai
III. Hiện thực hóa mục tiêu chiến lược cải cách hệ thống thuế phải phù hợp yêu cầu thực tiễn là tạo điều kiện tối đa hỗ trợ cho người nộp thuế
Tại Hội nghị triển khai thực hiện Chiến lược cải cách hệ thống thuế đến năm 2030 vừa được Tổng cục Thuế tổ chức chiều ngày 20/09/2024 để đánh giá giữa kỳ thực hiện “Kế hoạch quản lý thuế trung hạn 2023-2025”, Tổng cục trưởng Tổng cục Thuế – Mai Xuân Thành yêu cầu các giải pháp chuyển đổi số trong quản lý thuế phải tạo điều kiện tối đa hỗ trợ cho người nộp thuế (NNT) và phục vụ công tác quản lý thuế hiệu quả.
Tổng cục trưởng Mai Xuân Thành cho biết:
- Triển khai Quyết định số 508/QĐ-TTg ngày 23/04/2022 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược cải cách hệ thống thuế đến năm 2030 đặt mục tiêu hệ thống chính sách thuế của Việt Nam sẽ được hoàn thiện một cách đồng bộ, phù hợp với các tiêu chuẩn của hệ thống thuế theo thông lệ quốc tế, đồng thời đáp ứng yêu cầu về nguồn lực để thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 10 năm 2021-2030.
Với mục tiêu hoàn thiện đồng bộ các sắc thuế, phí, lệ phí chủ yếu sau đây: Thuế giá trị gia tăng; thuế tiêu thụ đặc biệt; thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu; thuế thu nhập doanh nghiệp; thuế thu nhập cá nhân; thuế tài nguyên; thuế sử dụng đất nông nghiệp; thuế sử dụng đất phi nông nghiệp; thuế bảo vệ môi trường; các khoản phí, lệ phí và thu khác thuộc ngân sách nhà nước. - Để triển khai Chiến lược cải cách hệ thống thuế đến năm 2030 ban hành kèm theo Quyết định số 508/QĐ-TTg ngày 23/04/2022 của Thủ tướng Chính phủ, Tổng cục Thuế đã xây dựng và trình Bộ Tài chính ban hành Chương trình hành động triển khai thực hiện Chiến lược cải cách hệ thống thuế đến năm 2030 theo Quyết định số 2438/QĐ-BTC ngày 22/11/2022 của Bộ trưởng Bộ Tài chính và Kế hoạch cải cách hệ thống thuế đến năm 2025 theo Quyết định số 2439/QĐ-BTC ngày 22/11/2022 của Bộ trưởng Bộ Tài chính nhằm cụ thể hóa các mục tiêu, giải pháp theo từng giai đoạn 05 năm và hàng năm nhằm cải cách toàn diện công tác quản lý thuế. “Trên cơ sở bám sát chiến lược, chương trình hành động kế hoạch 5 năm, Tổng cục Thuế đã xây dựng và ban hành Kế hoạch quản lý thuế trung hạn 2023-2025 thực hiện Kế hoạch cải cách hệ thống thuế đến năm 2025 theo Quyết định số 218/QĐ-TCT ngày 22/3/2023 của Tổng cục trưởng Tổng cục Thuế với các nội dung cải cách trọng tâm trên các lĩnh vực then chốt của công tác quản lý thuế đảm bảo xuyên suốt, thống nhất và tuân thủ theo định hướng mục tiêu, quan điểm, nội dung giải pháp đã đề ra.” – Tổng cục trưởng Mai Xuân Thành nhấn mạnh.
- Để thực hiện Kế hoạch cải cách hệ thống thuế đến năm 2025 đạt hiệu quả cao, Tổng cục trưởng yêu cầu việc đánh giá kết quả thực hiện Kế hoạch cải cách quản lý thuế giai đoạn năm 2023-2024 để từ đó đưa ra nhiệm vụ trọng tâm cải cách quản lý thuế trong thời gian tới là hết sức cần thiết. Tổng cục trưởng đề nghị Ban Cải cách và Hiện đại hóa – là đơn vị chủ trì triển khai tổng hợp toàn bộ ý kiến và các đề xuất giải pháp bổ sung (nếu có) của các đơn vị nghiệp vụ, đồng thời có làm việc với từng đơn vị để đánh giá và cụ thể hóa từng mục tiêu theo chiến lược để báo cáo Tổng cục xem xét, quyết định. “Những đánh giá và phương án được đề xuất thực hiện kế hoạch cần phải thực chất, phù hợp với điều kiện thực tiễn, từ đó phải đặc biệt lưu ý trên cơ sở mục tiêu kế hoạch tổng thể, các đơn vị nghiệp vụ cần tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện và triển khai các giải pháp chuyển đổi số toàn diện trong quản lý thuế đã được đề cập trong kế hoạch để tạo điều kiện tối đa hỗ trợ cho NNT và phục vụ công tác quản lý thuế hiệu quả.” – Tổng cục trưởng Mai Xuân Thành lưu ý.
- Tại hội nghị, đại diện Ban Cải cách và hiện đại hóa (Tổng cục Thuế) cho biết, trong mỗi lĩnh vực, về các mục tiêu trọng tâm cụ thể có so sánh về mức độ đạt được và chưa đạt được với mục tiêu đã đề ra; về các nội dung cải cách có so sánh kết quả triển khai theo các mức độ, gồm: hoàn thành; hoàn thành theo tiến độ; chưa hoàn thành; chưa triển khai theo kế hoạch.
Trao đổi tại hội nghị, đại diện lãnh đạo các đơn vị nghiệp vụ thuộc Tổng cục Thuế đã đưa ra những đánh giá, nhận định lại kết quả triển khai chiến lược của đơn vị mình chủ trì thực hiện, đồng thời đưa ra những đề xuất giải pháp, kế hoạch triển khai bổ sung thêm vào công tác triển khai mục tiêu cải cách thuộc phạm vi đơn vị quản lý theo đúng gợi ý của Lãnh đạo Tổng cục.
IV. Đối thoại chân thành, cởi mở, ngành Thuế tiến một bước dài đến gần hơn với người nộp thuế
Với tinh thần đồng hành cùng NNT, kịp thời lắng nghe, tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc và kiến nghị của người dân, doanh nghiệp (DN) trong việc thực hiện các quy định, chính sách pháp luật thuế và góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế Khu vực kinh tế trọng điểm miền Đông Nam Bộ, sáng ngày 27/09/2024 ngành thuế đã tổ chức phiên đối thoại với cộng đồng DN và NNT.
- Tại phiên đối thoại buổi sáng, ngành Thuế đã trực tiếp đối thoại và trả lời trực tiếp gần 203 các vấn đề DN và NNT đặt ra. Trong đó, điển hình có phiếu điền nội dung hỏi của DN và NNT có từ 2-3 nội dung cần trao đổi, tháo gỡ vướng mắc. Theo đó tại phiên sáng riêng đã có 150 phát sinh hỏi thêm. Trong đó, nội dung chủ yếu tập trung vào các lĩnh vực: hoá đơn điện tử (trên 30 nội dung vướng mắc); thuế GTGT và hoàn thuế (29 nội dung vướng mắc). Theo Phó Tổng cục trưởng Mai Sơn, những vướng mắc của DN và NNT được ngành Thuế rất quan tâm tìm hiểu và cũng trăn trở để tìm giải pháp giải quyết để tập trung chỉ đạo quyết liệt trong quá trình giải quyết vướng mắc, từ đó tạo điều để NNT thực hiện tốt nghĩa vụ thuế, nhưng cũng giúp DN và NNT thuận lợi trong triển khai sản xuất kinh doanh. Phó Tổng cục trưởng Mai Sơn cũng bày tỏ mong muốn DN và NNT chia sẻ và thẳng thắn trao đổi và cơ quan thuế cũng không được né tránh và phải giải quyết dứt điểm những vướng mắc của cộng đồng DN và NNT không chỉ tại hội nghị này mà còn trong thực tiễn triển khai công tác thuế trong thời gian tới.
- Những nội dung tại phiên đối thoại chiều tập trung vào lĩnh vực thuế thu nhập DN, thuế nhà thầu, thuế thu nhập cá nhân, quản lý nợ, hoàn nộp thừa, thuế đất và một số nội dung liên quan đến thủ tục hành chính, xử phạt vi phạm hành chính thuế,… đã được đối thoại, trao đổi.
- Song song với việc trả lời nội dung hỏi, Ban Tổ chức tiếp tục gửi phiếu cho DN và NNT đăng ký hỏi và trao đổi vướng mắc nếu thấy vấn đề được giải đáp tại phiên sáng từ phía cơ quan thuế chưa rõ hoặc chưa thỏa đáng theo yêu cầu của DN mình. Thống kê đến 16h00’ chiều ngày 27/9, tổng số câu hỏi Ban Tổ chức nhận được là 401 nội dung của 233 NNT. Số các nội dung được giải đáp trực tiếp tại hội nghị lên đến gần 300 nội dung. Có thể nói, số lượng câu hỏi Ban Tổ chức nhận được trước và trong hội nghị, cũng như câu hỏi phát sinh tại hội nghị khá lớn, tuy nhiên do thời gian của hội nghị có hạn. Ban Tổ chức hội nghị đã ghi nhận đầy đủ các nội dung vướng mắc của DN và NNT. Trước tình hình đó, Phó Tổng cục trưởng Mai Sơn yêu cầu Ban Tổ chức tổng hợp đầy đủ nội dung hỏi và với những câu hỏi chưa được trả lời tại hội nghị, Tổng cục Thuế sẽ phân công các đơn vị nghiệp vụ của Tổng cục Thuế tiếp tục trả lời và sẽ đăng tải công khai trên Website của Tổng cục Thuế.
Tại hội nghị, trước trên 300 DN và NNT, Tổng cục trưởng Mai Xuân Thành chia sẻ:
- Cơ quan thuế rất mong muốn nhận được sự thấu hiểu và chia sẻ của cộng đồng DN và NNT đối với những thách thức cơ quan thuế đang phải đối mặt trước thực trạng gian lận về hóa đơn, về hoàn thuế; thủ đoạn trốn, tránh thuế ngày càng tinh vi đã phần nào ảnh hưởng cả tới những NNT tuân thủ tốt, chấp hành pháp luật thuế.
- Cơ quan thuế đang khẩn trương nghiên cứu và triển khai các giải pháp mạnh mẽ, áp dụng các giải pháp công nghệ tiên tiến để phát hiện sớm những hành vi gian lận, trốn, tránh thuế, từ đó hướng tới môi trường hóa đơn sạch; áp dụng trí tuệ nhân tạo (AI) trong việc trả lời vướng mắc tự động; và chấm điểm sự hài lòng của NNT đối với cơ quan thuế, từ đó đem lại sự công bằng cho những NNT có ý thức tuân thủ cao, chấp hành tốt pháp luật thuế, tạo môi trường đầu tư, sản xuất kinh doanh lành mạnh, minh bạch. “Đảng, Nhà nước, Quốc hội, Chính phủ, Bộ Tài chính luôn đánh giá cao vai trò của cộng đồng DN và NNT là động lực quan trọng cho sự phát triển kinh tế xã hội đất nước và dành sự quan tâm rất lớn, thường xuyên đối thoại, lắng nghe, chia sẻ, xây dựng chính sách và thực hiện cải cách hành chính để tạo điều kiện thuận lợi nhất cho DN và NNT hoạt động, phát triển ổn định, đặc biệt là luôn đồng hành, tháo gỡ cùng DN và NNT trong những giai đoạn khó khăn do dịch bệnh và thiên tai, bão lũ,…” – Tổng cục trưởng Mai Xuân Thành đánh giá.
- Tổng cục trưởng yêu cầu cơ quan thuế các cấp tiếp tục không ngừng cải cách hành chính, hiện đại hóa công tác quản lý, thực hiện chuyển đổi số toàn diện để tạo điều kiện thuận lợi nhất cho DN và NNT như: triển khai các dịch vụ thuế điện tử (kê khai, nộp thuế, hoàn thuế,…); triển khai ứng dụng eTax Mobile; hóa đơn điện tử; hóa đơn điện tử khởi tạo từ máy tính tiền; Cổng thông tin điện tử cho Nhà cung cấp nước ngoài; Cổng thông tin điện tử cho các Sàn giao dịch thương mại điện tử;…“Với trên 401 nội dung câu hỏi vướng mắc của các DN và NNT được gửi về Ban Tổ chức và khoảng 300 nội dung hỏi đã được trao đổi trực tiếp tại hội nghị, điều này chứng tỏ vấn đề chính sách thuế và thủ tục hành chính thuế vẫn đang là vấn đề ‘nóng’ đối với cơ quan thuế. Chúng ta phải nhìn rõ, nhìn thẳng thắn vào những hạn chế trong công tác chuyển tải đến DN và NNT về các quy định pháp luật và thủ tục hành chính về lĩnh vực thuế để đưa ra giải pháp tuyên truyền phù hợp, những cải cách phù hợp với thực tiễn để mục tiêu ‘Lấy NNT làm trung tâm phục vụ’ không phải chỉ tồn tại trên các ấn phẩm tuyên truyền, mà phải len lỏi vào cuộc sống và đến được với NNT một cách thực chất, hiệu quả nhất.” – Tổng cục trưởng Mai Xuân Thành quyết liệt chỉ đạo.
Thay mặt Tổng cục Thuế, Tổng cục trưởng Mai Xuân Thành cam kết sẽ tiếp tục lắng nghe một cách cầu thị nhất những khó khăn, vướng mắc cũng như đề xuất, kiến nghị của các DN và NNT để từ đó nghiên cứu, đưa ra các giải pháp quản lý thuế, hoàn thiện cơ chế, chính sách, không ngừng cải cách, hiện đại hóa và chuyển đổi số một cách toàn diện, xây dựng môi trường quản lý thuế công khai, minh bạch, công bằng với mục tiêu tạo sự thuận lợi cao nhất cho NNT và sự phối hợp, đồng hành, đồng thuận cao nhất giữa cơ quan thuế và NNT. - Có thể nhận thấy hội nghị đối thoại do ngành Thuế trực tiếp tổ chức đã giúp các DN và NNT làm rõ vấn đề vướng mắc, từ đó giúp cơ quan thuế tổ chức tháo gỡ hoặc tổng hợp trình cơ quan có thẩm quyền xem xết cùng phối hợp giải quyết. Thay mặt cho Tổng cục Thuế và toàn thể cán bộ, công chức, viên chức và người lao động ngành Thuế, Tổng cục trưởng Mai Xuân Thành trân trọng cảm ơn sự đóng góp, đồng hành của cộng đồng DN và NNT trong suốt thời gian vừa qua luôn gắn bó, đồng hành cùng với cơ quan thuế, tuân thủ và chấp hành tốt các nghĩa vụ pháp luật thuế, giúp cơ quan thuế hoàn thành nhiệm vụ thu ngân sách được giao và qua đó đóng góp nguồn lực rất lớn cho sự phát triển kinh tế xã hội của từng địa phương và cả nước. “Có thể có những lúc, những nơi, những thời điểm mà các vấn đề của DN và NNT chưa được cơ quan thuế hiểu rõ, giải quyết một cách kịp thời, giải thích một cách thấu đáo. Tại hội nghị đối thoại lần này, trân trọng cảm ơn và đánh giá cao các ý kiến đóng góp rất sâu sắc, trách nhiệm của đại diện người dân, DN để cơ quan thuế có tiếp tục rà soát, nghiên cứu và hoàn thiện công tác quản lý cho phù hợp, sát với thực tiễn, tạo môi trường sản xuất kinh doanh ổn định, công khai, minh bạch, bình đẳng, lành mạ
- Sau một ngày làm việc với tinh thần hết sức nghiêm túc, khẩn trương, các đại biểu đại diện cho các DN và NNT trên địa bàn 5 tỉnh, thành phố khu vực phía Nam, gồm: TP. Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bình Dương, Long An, Bà Rịa-Vũng Tàu đã cùng với Tổng cục Thuế trao đổi, thảo luận, giải đáp các vấn đề vướng mắc, khó khăn của NNT gặp phải trong quá trình thực hiện nghĩa vụ thuế, chấp hành pháp luật thuế.
- Có thể khẳng định, thông qua hội nghị đối thoại của ngành Thuế lần này, trên tinh thần trách nhiệm, cởi mở, cầu thị, những vướng mắc của DN và NNT đã giúp cơ quan thuế có cái nhìn rõ nét hơn, nắm bắt cụ thể hơn các khó khăn, vướng mắc của người dân, DN để có những giải pháp hỗ trợ, tháo gỡ kịp thời hơn, giúp cộng đồng DN nắm bắt và chấp hành tốt nhất chính sách pháp luật thuế, yên tâm tập trung phát triển sản xuất kinh doanh.
“Nắm chắc tinh thần mục tiêu ‘Lấy NNT làm trung tâm phục vụ’, qua hội nghị lần này, những vấn đề vướng mắc của DN và NNT đã rõ, Tổng cục Thuế cam kết sẽ luôn nhất quán và tiếp tục tăng cường chỉ đạo cơ quan thuế các cấp phải xử lý khẩn trương, kịp thời các thủ tục hành chính thuế đối với DN và NNT.
Theo đó, thường xuyên rà soát, đẩy nhanh tiến độ xử lý các công việc, nhiệm vụ còn tồn đọng và tăng cường đối thoại, lắng nghe những khó khăn, vướng mắc của NNT để cùng tìm cách tháo gỡ.” – phát biểu kết luận hội nghị, Tổng cục trưởng Mai Xuân Thành khẳng định.
V. Khẩn trương triển khai các chính sách về miễn, giảm, gia hạn thuế hỗ trợ tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp bị tổn thất do bão số 3 và mưa lũ sau bão
Thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại Công điện số 92/CĐ-TTg ngày 10/09/2024 về việc tập trung khắc phục hậu quả bão số 3 và mưa lũ sau bão, Tổng cục Thuế đã ban hành Công văn số 4062/TCT-CS yêu cầu các Cục Thuế các tỉnh, thành phố nơi có tổ chức, cá nhân, DN bị thiệt hại do bão số 3 và mưa lũ sau bão gây ra, triển khai việc hướng dẫn NNT các giải pháp về miễn, giảm, gia hạn thuế, chính sách thuế hỗ trợ tổ chức, cá nhân, DN bị tổn thất do bão số 3 và mưa lũ sau bão.
- Nội dung Công văn số 4062/TCT-CS đề nghị: Cục Thuế các tỉnh, thành phố: Quảng Ninh, Hải Phòng, Thái Nguyên, Nam Định, Hòa Bình, Lào Cai, Yên Bái, Sơn La, Lai Châu, Điện Biên, Hà Giang, Cao Bằng, Bắc Kạn, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Lạng Sơn, Bắc Giang, Bắc Ninh, Hải Dương, Hà Nội, Hưng Yên, Hà Nam, Ninh Bình, Thanh Hóa khẩn trương triển khai việc hướng dẫn NNT các giải pháp về miễn, giảm, gia hạn thuế, chính sách thuế hỗ trợ tổ chức, cá nhân, DN bị tổn thất do bão số 3 và mưa lũ sau bão.
- Theo đó, Tổng cục Thuế yêu cầu các Cục Thuế căn cứ quy định tại các quy định của pháp luật về lĩnh vực thuế về miễn, giảm, gia hạn thuế, chính sách thuế hỗ trợ tổ chức, cá nhân, DN hỗ trợ tổ chức, cá nhân, DN bị tổn thất do bão số 3 và mưa lũ sau bão. Cụ thể:
- Một là, triển khai quy định về pháp luật về miễn, giảm, gia hạn thuế, chính sách thuế cho NNT bị ảnh hưởng do gặp thiên tai.
- Hai là, triển khai các quy định pháp luật về miễn, giảm, gia hạn thuế, phí, lệ phí cho hộ, cá nhân kinh doanh bị ảnh hưởng do gặp thiên tai.
- Căn cứ các quy định pháp luật về lĩnh vực thuế Tổng cục Thuế yêu cầu:
- Cục Thuế các tỉnh, thành phố tuyên truyền, phổ biến, hướng dẫn tổ chức, cá nhân, DN thực hiện các chính sách hỗ trợ về gia hạn, miễn, giảm thuế nêu trên và phối hợp với các cơ quan có liên quan để giải quyết nhanh chóng các vấn đề liên quan đến thủ tục hành chính, cung cấp hồ sơ thuế, chứng từ lưu giữ tại cơ quan thuế liên quan đến việc xác định giá trị thiệt hại khi có yêu cầu và đề nghị của tổ chức, cá nhân, DN bị thiệt hại.
- Đồng thời, phân công cán bộ phối hợp, đầu mối để hướng dẫn NNT kịp thời; hỗ trợ các tổ chức, cá nhân, DN bị thiệt hại khôi phục hồ sơ thuế (hồ sơ khai thuế, hồ sơ miễn, giảm thuế, hồ sơ hoàn thuế, hồ sơ gia hạn nộp thuế…) và các tài liệu, chứng từ phục vụ cho việc xác định giá trị thiệt hại của tổ chức, cá nhân, DN theo quy định.
Trong quá trình thực hiện có phát sinh vướng mắc, các Cục Thuế phản ảnh kịp thời về Tổng cục Thuế để được hướng dẫn giải quyết.
VI. Chính phủ sẽ trình Quốc hội thông qua Dự án 1 luật sửa 7 luật tại 1 kỳ họp
Tại Nghị quyết 126/NQ-CP phiên họp chuyên đề về xây dựng pháp luật tháng 8/2024, Chính phủ đánh giá cao Bộ Tài chính đã chủ trì, phối hợp với các bộ, cơ quan liên quan xây dựng, trình Chính phủ hồ sơ Đề nghị xây dựng Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chứng khoán, Luật Kế toán, Luật Kiểm toán độc lập, Luật Ngân sách nhà nước, Luật Quản lý, sử dụng tài sản công, Luật Quản lý thuế, Luật Dự trữ Quốc gia.
Dự án 1 luật sửa 7 luật sẽ nâng cao năng lực thực thi, phân bổ nguồn lực có hiệu quả; cắt giảm, đơn giản hóa các thủ tục hành chính, giảm chi phí cho người dân, DN, phòng ngừa tham nhũng, tiêu cực. Theo đó:
- Chính phủ giao Bộ trưởng Bộ Tư pháp thay mặt Chính phủ ký Tờ trình của Chính phủ báo cáo Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét bổ sung dự án Luật vào Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2024, trình Quốc hội cho phép áp dụng trình tự, thủ tục rút gọn, xem xét, thông qua tại Kỳ họp thứ 8 theo quy trình 1 kỳ họp. Trong đó, Dự thảo Luật nhằm tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn hoạt động sản xuất, kinh doanh của DN; bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát, ổn định các cân đối lớn của nền kinh tế, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế; cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh của DN Việt Nam nói riêng và nền kinh tế Việt Nam nói chung.
- Chính phủ thống nhất về sự cần thiết xây dựng và phạm vi sửa đổi các luật trong đề nghị xây dựng Luật; giao Bộ Tài chính nghiên cứu, tiếp thu tối đa các ý kiến Thành viên Chính phủ, hoàn thiện hồ sơ Đề nghị xây dựng Luật, bảo đảm một số yêu cầu.
- Chính phủ giao Bộ Tài chính cần tiếp tục tổng kết, rà soát, đánh giá để bảo đảm xử lý triệt để những khó khăn, vướng mắc từ thực tiễn, bảo đảm sự thống nhất, đồng bộ với các luật khác có liên quan như Luật Đầu tư công sửa đổi, Luật DN, Luật Đất đai…, tránh chồng chéo, mâu thuẫn, tạo khoảng trống pháp lý khi tổ chức thi hành Luật. Đồng thời, việc sửa luật phải tạo môi trường đầu tư minh bạch, an toàn, rõ ràng và nhanh chóng; tổ chức hiệu quả các hoạt động tham vấn, lấy ý kiến các cơ quan, tổ chức, DN, các chuyên gia, nhà khoa học để nghiên cứu, tiếp thu tối đa các ý kiến xác đáng, phù hợp.
- Một điểm quan trọng trong Nghị quyết, đó là việc Chính phủ yêu cầu Dự thảo Luật cần phải quy định tăng cường phân cấp, phân quyền cho các bộ, ngành, địa phương. Theo đó, dự thảo Luật phải ban hành quy trình quản lý, phân bổ và sử dụng nguồn Ngân sách nhà nước cho các công trình, dự án tại địa phương hiệu quả, công bằng, công khai, minh bạch; tránh tình trạng ngân sách địa phương không được hỗ trợ cho các dự án ở trung ương trên địa bàn; Ngân sách nhà nước của các địa phương có thể hỗ trợ cho nhau để thực hiện nhiệm vụ kinh tế – xã hội. Đồng thời, giải quyết các bất cập, tăng cường phân cấp, phân quyền cho các bộ, ngành, địa phương. Việc phân cấp, phân quyền gắn liền với nâng cao năng lực thực thi, phân bổ nguồn lực có hiệu quả; cắt giảm, đơn giản hóa các thủ tục hành chính, giảm chi phí cho người dân, DN, xóa bỏ “cơ chế xin – cho”, phòng ngừa tham nhũng, tiêu cực trong quá trình thực hiện.
VII. Sửa Luật Quản lý thuế theo hướng tạo điều kiện tối đa cho người nộp thuế
Tổng cục Thuế đã ban hành Quy trình tiếp nhận, giải quyết và trả kết quả giải quyết hồ sơ thủ tục hành chính (TTHC) thuế theo cơ chế một cửa, một cửa liên thông tại cơ quan thuế.
Theo đó:
- Quy trình này hướng dẫn thực hiện công việc tiếp nhận, giải quyết và trả kết quả giải quyết TTHC của NNT thông qua bộ phận tiếp nhận hồ sơ và trả kết quả của cơ quan thuế các cấp; số hóa hồ sơ và kết quả giải quyết TTHC; đánh giá công tác giải quyết TTHC thuế.
- Quy trình này áp dụng đối với toàn bộ TTHC thuế thuộc diện phải trả kết quả giải quyết hoặc không phải trả kết quả giải quyết theo quy định của pháp luật quản lý thuế và pháp luật có liên quan. Đồng thời, cũng áp dụng đối với cơ quan thuế các cấp, các bộ phận trong cơ quan thuế và các công chức thuế được giao nhiệm vụ liên quan đến việc tiếp nhận, giải quyết, trả kết quả giải quyết hồ sơ TTHC thuế.
- Theo quy trình:
- Việc tiếp nhận, giải quyết hồ sơ TTHC thuế phải tuân thủ đúng quy định của pháp luật về thuế, pháp luật cấp dịch vụ công về văn thư, pháp luật về giao dịch điện tử và cung cấp dịch vụ công.
- Tổng cục Thuế yêu cầu lấy sự hài lòng của NNT là thước đo chất lượng và hiệu quả phục vụ của cơ quan thuế, công chức thuế trong công tác tiếp nhận và giải quyết TTHC thuế.
- Cơ quan thuế không yêu cầu NNT cung cấp lại thông tin, giấy tờ, tài liệu đã được số hóa có giá trị pháp lý theo quy định do cơ quan thuế đang quản lý hoặc được cơ quan nhà nước khác chia sẻ dùng chung mà các thông tin, giấy tờ, tài liệu này truy xuất được tại thời điểm tiếp nhận hồ sơ TTHC thuế.
- Mọi thông tin, tài liệu, hồ sơ TTHC thuế do NNT gửi đến cơ quan thuế hoặc các thông báo, quyết định, văn bản do cơ quan thuế gửi đến NNT đều phải được ghi nhận trên hệ thống để làm căn cứ xác nhận trách nhiệm của từng bộ phận trong quá trình giải quyết hồ sơ TTHC của NNT.
- Cùng với đó, toàn bộ quá trình giải quyết hồ sơ của NNT đều phải được cập nhật vào Hệ thống thông tin giải quyết TTHC để cung cấp dữ liệu phục vụ công tác chỉ đạo, điều hành, đánh giá chất lượng phục vụ NNT theo thời gian thực trên môi trường điện tử.
VIII. Thống nhất quy định về mức trả tiền lãi cho người nộp thuế
Luật Quản lý thuế số 38/2019/QH14 sau 4 năm thực thi đã bộc lộ một số vướng mắc trong cơ chế chính sách, pháp luật liên quan. Chính vì vậy, Bộ Tài chính đã đề xuất sửa đổi một số quy định nhằm tạo thuận lợi tối đa cho NNT.
Tại dự thảo Tờ trình dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Ngân sách nhà nước, Luật Quản lý, sử dụng tài sản công, Luật Dự trữ quốc gia, Luật Kế toán, Luật Kiểm toán độc lập, Luật Chứng khoán, Luật Quản lý thuế, Bộ Tài chính đã nêu ra những tồn tại, hạn chế trong quy định mức tiền phải trả lãi tại Luật Quản lý thuế. Cụ thể:
- Luật Quản lý thuế hiện hành quy định về trả tiền lãi cho NNT khi cơ quan thuế giải quyết hoàn thuế chậm với mức tính lãi là 0,03%/ngày nhưng chưa có quy định cụ thể về thẩm quyển, trình tự, thủ tục hoàn trả tiền lãi cho NNT và kinh phí chi trả nên hiện nay cơ quan thuế chưa có cơ sở để triển khai thực hiện. Theo quy định Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2017, khoản tiền lãi phải trả cho NNT được tính theo lãi suất phát sinh do chậm trả tiền trong trường hợp không có thỏa thuận theo quy định của Bộ luật Dân sự tại thời điểm thụ lý hồ sơ yêu cầu bồi thường. Như vậy, quy định về mức lãi phải trả tại 2 văn bản pháp luật trên có sự không thống nhất.
- Cũng theo Bộ Tài chính, về quy tắc xác định thời gian tính tiền chậm nộp vẫn chưa thống nhất giữa các quy định tại Luật Quản lý thuế hiện hành. Theo đó, quy tắc xác định thời gian tính tiền chậm nộp quy định tại điểm b khoản 2 Điều 59 Luật Quản lý thuế hiện hành chưa thống nhất với quy tắc xác định thời gian tính tiền chậm nộp đối với trường hợp phải nộp tiền chậm nộp quy định tại điểm a, điểm b khoản 1 Điều 59 Luật Quản lý thuế.
- Một vướng mắc khác liên quan đến quy định về biện pháp cưỡng chế thi hành quyết định hành chính về quản lý thuế, thực tế hiện nay, việc áp dụng 2 biện pháp cưỡng chế Kê biên tài sản và biện pháp thu bên thứ 3 rất khó thực hiện và không có hiệu quả (biện pháp kê biên tài sản thường mới chỉ dừng lại ở bước xác minh thông tin; biện pháp thu bên thứ 3 mới chỉ thực hiện được một số trường hợp do bên thứ 3 có khoản nợ đến hạn phải trả NNT).
- Nguyên nhân do khi cơ quan thuế thực hiện xác minh thông tin thì NNT không có thông tin về tài sản hoặc các đơn vị không cung cấp thông tin. Trường hợp có thông tin về tài sản thì hầu hết tài sản của NNT đang được thế chấp tại các tổ chức tín dụng; khó xác định quyền sở hữu tài sản của đối tượng nộp thuế để cưỡng chế hoặc việc xác định tỷ lệ trách nhiệm của NNT nợ thuế với tỷ lệ đóng góp của DN hoặc xác định tỷ lệ tài sản đối với các tài sản có đồng sở hữu; giá trị còn lại của tài sản thấp và việc định giá tài sản khó thực hiện. Hiện, cơ quan thuế không có chức năng định giá nên chỉ có thể xác định được giá trị nếu tài sản kê biên là tiền mặt (đồng Việt Nam, ngoại tệ), kim loại quý…
- Đối với tài sản là nhà xưởng, phương tiện vận tải, máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu, hàng hóa thì cơ quan thuế không ước định được giá trị tài sản kê biên nên không xác định được giá trị tài sản kê biên có tương đương với khoản tiền thuế nợ của NNT. Theo Bộ Tài chính, để thực hiện được biện pháp này phụ thuộc rất nhiều vào các đơn vị liên quan; cơ quan thuế phải có kho bãi, nhân lực để cất giữ bảo quản số tài sản kê biên trước khi đem ra đấu giá (nhất là đối với tài sản là máy móc, thiết bị, hàng hóa)…theo đó, việc thực hiện biện pháp này sẽ rất phức tạp và mất nhiều thời gian, công sức và chi phí.
- Ngoài ra, nếu thực hiện theo quy định được áp dụng biện pháp cưỡng chế trước đó và biện pháp cưỡng chế tiếp theo trong trường hợp quyết định cưỡng chế đối với một số biện pháp chưa hết hiệu lực nhưng không có hiệu quả mà cơ quan quản lý thuế có đủ thông tin, điều kiện để xác định biện pháp cưỡng chế tiếp theo hoặc áp dụng biện pháp cưỡng chế trước đó có hiệu quả hơn thì khi đang áp dụng biện pháp kê biên tài sản hoặc thu bên thứ 3 cơ quan thuế rất khó xác định được việc áp dụng biện pháp này không có hiệu quả là như thế nào.
- Các quy định mang tính chất định tính như “một số biện pháp”, “không hiệu quả” nên cơ quan thuế rất khó xác định và thực hiện; chưa có nguyên tắc đối với NNT có hành vi phát tán tài sản hoặc bỏ trốn thì có thể lựa chọn áp dụng ngay biện pháp cưỡng chế phù hợp trong 7 biện pháp cưỡng chế để kịp thời thu tiền nợ thuế cho ngân sách nhà nước.
Để khắc phục những hạn chế trên, tại Tờ trình dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Ngân sách nhà nước, Luật Quản lý, sử dụng tài sản công, Luật Dự trữ quốc gia, Luật Kế toán, Luật Kiểm toán độc lập, Luật Chứng khoán, Luật Quản lý thuế, Bộ Tài chính sẽ hoàn thiện quy định tại Luật Quản lý thuế để tháo gỡ vướng mắc về cơ chế chính sách, nâng cao hiệu lực hiệu quả quản lý thuế, tăng cường trách nhiệm công vụ để đảm bảo công bằng, bình đẳng, minh bạch, thống nhất trong hệ thống văn bản pháp luật. Cụ thể:
- Sửa đổi quy định về mức tiền phải trả lãi (sửa đổi, bổ sung tại khoản 8 Điều 16 về quyền của NNT và bãi bỏ khoản 3 Điều 75 về thời hạn giải quyết hồ sơ hoàn thuế) nhằm đảm bảo thống nhất giữa Luật Quản lý thuế và Luật Bồi thường trách nhiệm của Nhà nước.
- Đồng thời, sửa đổi quy tắc xác định thời gian tính tiền chậm nộp nhằm đảm bảo áp dụng văn bản quy định pháp luật thống nhất giữa các văn bản quy phạm pháp luật và đúng quy định tại Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật (sửa đổi, bổ sung tại điểm b khoản 2 Điều 59 về thời gian tính tiền chậm nộp).
- Cùng với đó, sửa đổi quy định về biện pháp cưỡng chế thi hành quyết định hành chính về quản lý thuế nhằm giải quyết những khó khăn, bất cập của việc áp dụng biện pháp Kê biên tài sản và biện pháp thu bên thứ 3, góp phần tăng hiệu quả trong công tác đôn đốc thu hồi nợ thuế vào ngân sách nhà nước (sửa đổi, bổ sung tại khoản 3 Điều 125 về biện pháp cưỡng chế thi hành quyết định hành chính về quản lý thuế).
IX. Tạo thuận lợi cho người nộp thuế thực hiện nghĩa vụ tài chính theo Luật Đất đai năm 2024
Tổng cục Thuế đã có công văn yêu cầu Cục Thuế các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương rà soát công việc đã thực hiện để hoàn thiện và triển khai Luật Đất đai năm 2024.
Theo Tổng cục Thuế, Luật Đất đai số 31/2024/QH15 đã được Quốc hội thông qua ngày 18/01/2024. Cùng với đó, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 103/2024/NĐ-CP ngày 30/07/2024 quy định về tiền sử dụng đất, tiền thuê đất. Luật Đất đai số 31/2024/QH15 và các nghị định quy định chi tiết có nhiều nội dung thay đổi liên quan đến xác định nghĩa vụ tài chính từ đất và chức năng, nhiệm vụ của cơ quan thuế.
Để triển khai chính sách mới kịp thời, tránh sai sót trong quá trình thực hiện, Tổng cục Thuế yêu cầu các Cục Thuế:
- Thực hiện tự rà soát hồ sơ giải quyết theo quy định của chính sách đất đai trước Luật Đất đai năm 2024, đảm bảo thực hiện đúng quy định của pháp luật từng thời kỳ và giải quyết công việc đúng chức năng, nhiệm vụ của cơ quan thuế, phù hợp với chuyên môn về nội dung quản lý thuế trong công tác thu ngân sách nhà nước của cơ quan thuế. Trường hợp phát hiện có sai sót thì kịp thời có biện pháp khắc phục, hoàn thiện các hồ sơ đã giải quyết đảm bảo đúng quy định.
- Chủ động nghiên cứu các tồn tại đã được các cơ quan điều tra, cơ quan Kiểm toán Nhà nước hoặc các cơ quan kiểm tra khác kiến nghị tại các báo cáo, kết luận về công tác quản lý thu ngân sách nhà nước của cơ quan thuế liên quan đến thực hiện nghĩa vụ tài chính về đất đai của NNT, như: miễn, giảm tiền thuê đất, tiền sử dụng đất chưa đúng đối tượng, thực hiện không đúng các điều khoản trong Hợp đồng Ủy nhiệm thu thuế sử dụng đất phi nông nghiệp…
- Chú trọng đánh giá nguyên nhân phát sinh các tồn tại, sai phạm để thực hiện chấn chỉnh, khắc phục và rút kinh nghiệm nhằm triển khai thực hiện theo đúng quy định của pháp luật.
- Đồng thời, cần thực hiện nghiêm công tác phối hợp giữa các cơ quan, đơn vị trong giải quyết thủ tục hành chính, tạo thuận lợi cho NNT. Chủ động phối hợp với các ngành liên quan giải quyết các vướng mắc phát sinh trong quá trình thu nghĩa vụ tài chính liên quan đến đất đảm bảo đúng thẩm quyền, đúng quy định pháp luật, không gây ách tắc.
- Tăng cường tuyên truyền, phổ biến pháp luật tới người dân và DN để nâng cao nhận thức, trách nhiệm tạo sự đồng thuận trong thực thi pháp luật về đất đai.
X. Chuyển đổi số mạnh mẽ trong quản lý thuế hộ, cá nhân kinh doanh
Ngày 24/09/2024, Cục Thuế Hà Nội tổ chức Hội nghị đổi mới, nâng cao chất lượng công tác quản lý thuế hộ, cá nhân kinh doanh gắn với chuyển đổi số. Tại Hội nghị, Cục Thuế Hà Nội cho biết đã có nhiều biện pháp tăng cường công tác quản lý hộ kinh doanh trên địa bàn, trong đó chú trọng với việc đổi mới quản lý gắn với chuyển đổi số. Nhờ đó đến nay đã có những chuyển biến tích cực.
Thời gian qua, Cục Thuế Hà Nội đã đẩy mạnh chuyển đổi số trong từng khâu quản lý thuế như: Đăng ký liên thông, bản đồ số hộ kinh doanh, kê khai thuế điện tử, sử dụng hoá đơn điện tử, xây dựng cơ sở dữ liệu riêng hộ khoán, đẩy mạnh nộp thuế bằng phương thức điện tử, triển khai khai thác quản lý hoạt động thương mại điện tử (TMĐT). Nhờ những giải pháp này đến nay đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận. Theo ông Vũ Mạnh Cường – Cục trưởng Cục Thuế Hà Nội, tính đến hết 30/08/2024, số đối tượng đưa vào quản lý thuế tiếp tục có sự tăng lên (tăng 8,2% so với cùng kỳ năm 2023). Số thu đến từ khu vực hộ kinh doanh tăng 36,9% so với cùng kỳ năm 2023. Số thuế hộ khoán/tháng đạt 70,64 tỷ đồng (tăng 26,1% so với cùng kỳ năm 2023). Đáng chú ý, việc quản lý hộ kinh doanh hoạt động TMĐT đã đạt được kết quả ấn tượng. Theo đó, tổng số thu từ cá nhân, hộ kinh doanh TMĐT đạt 1.058 tỷ đồng, bằng 365% so với cùng kỳ năm 2023.
- Cục Thuế Hà Nội đã đẩy mạnh chuyển đổi số trong công tác quản lý thuế hộ kinh doanh. Đầu tiên là chuyển đổi số trong công tác đăng ký kinh doanh, đăng ký thuế.
- Cục Thuế Hà Nội triển khai liên thông đăng ký kinh doanh, đăng ký thuế với 100% hộ kinh doanh phát sinh mới (đủ điều kiện đăng ký Giấy chứng nhận hoạt động hộ kinh doanh) qua Hệ thống đăng ký kinh doanh quốc gia. Tính đến hết tháng 8, số lượng hộ kinh doanh có đầy đủ giấy chứng nhận là 129.647 hộ kinh doanh, tăng 14% so với cùng kỳ năm 2023. Cục Thuế tiếp tục triển khai bản đồ số hộ kinh doanh trên ứng dụng Etax Mobile, theo đó, 100% hộ kinh doanh theo phương pháp khoán được công khai trên Bản đồ số.
- Cùng với đó, Cục Thuế Hà Nội cũng chuyển đổi số trong công tác kê khai, quản lý doanh thu mức thuế. Theo bà Nguyễn Thị Minh Tân, trên địa bàn TP. Hà Nội đã có 107.616 hộ kinh doanh đăng ký tài khoản giao dịch điện tử, tăng 116% so với cùng kỳ năm 2023; 100% các hộ kinh doanh kê khai và 100% hộ kinh doanh cho thuê tài sản thực hiện kê khai tờ khai điện tử.
- Bên cạnh đó, Cục Thuế tiếp tục hoàn thiện hệ thống cơ sở dữ liệu riêng về hộ khoán bằng việc dần hoàn thiện xây dựng Bộ ngành nghề kinh doanh riêng đối với hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh làm cơ sở xác định khung doanh thu khác theo từng ngành nghề, từng địa bàn.
- Đối với việc chuyển đổi số công tác nộp thuế, hiện số lượng hộ kinh doanh đã nộp qua hình thức điện tử là 56.763 hộ kinh doanh tăng 51% so với năm 2023; số tiền đã nộp qua hình thức điện tử là 871 tỷ đồng, tăng 162% so với năm 2023.
- Đáng chú ý, đối với việc áp dụng hóa đơn điện tử khởi tạo từ máy tính tiền, Cục Thuế Hà Nội đã triển khai áp dụng hóa đơn điện tử khởi tạo từ máy tính tiền với 9.649 cơ sở kinh doanh (trong đó có 2.304 hộ kinh doanh).
Theo Cục trưởng Vũ Mạnh Cường, để có những bước đột phá trong công tác quản lý, cùng với mục tiêu khắc phục những tồn tại hạn chế, nâng cao hiệu quả công tác quản lý thuế đối với hộ kinh doanh, cơ quan thuế cần phải có những giải pháp mới, thay đổi toàn diện về công tác quản lý thuế hộ kinh doanh gắn với chuyển đổi số. Cụ thể, quản lý hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh theo đúng pháp luật đăng ký kinh doanh, pháp luật thuế và các pháp luật chuyên ngành khác có liên quan gắn với các nội dung chuyển đổi số của Thành phố. Cùng với đó là thực hiện đồng bộ các giải pháp về tuyên truyền, hỗ trợ, quản lý đối tượng, quản lý doanh thu, mức thuế, quản lý nợ và cưỡng chế nợ thuế đối với hộ, cá nhân kinh doanh theo đúng quy định pháp luật, góp phần chống thất thu ngân sách nhà nước.
Cục Thuế Hà Nội cũng sẽ tiếp tục cải cách thủ tục hành chính thuế thông qua chuyển đổi số giúp NNT tiếp cận nhanh, dễ dàng các dịch vụ công, các ứng dụng số, nền tảng số để được cung cấp thông tin đầy đủ, được phục vụ kịp thời. Đồng thời, hiện đại hóa công tác chỉ đạo điều hành, công tác quản lý thuế theo hướng ứng dụng hiệu quả công nghệ số vào từng khâu, từng bước công việc quản lý.
XI. Áp dụng công nghệ mới để quản lý thuế hoạt động kinh doanh thương mại điện tử
Trước thực trạng hoạt động kinh doanh TMĐT phát triển mạnh mẽ trong những năm gần đây, Tổng cục Thuế đã chủ động triển khai nhiều biện pháp như xây dựng cơ sở dữ liệu quản lý thuế, phối hợp với các bộ, ngành trong việc chia sẻ dữ liệu… để công tác quản lý và thu thuế đạt hiệu quả cao hơn. Thời gian tới, ngành Thuế sẽ tiếp tục rà soát, hoàn thiện cơ chế chính sách quản lý để hạn chế tối đa tình trạng thất thu ngân sách nhà nước ở lĩnh vực này.
1. Quản lý thuế chặt chẽ
Tại Tọa đàm “Tăng cường hiệu quả quản lý thuế đối với TMĐT” do Cổng Thông tin điện tử Chính phủ tổ chức ngày 23/09/2024, bà Lại Việt Anh – Phó Cục trưởng Cục TMĐT và Kinh tế số (Bộ Công Thương) cho biết, TMĐT Việt Nam phát triển rất nhanh trong vòng 10-15 năm qua, đặc biệt 5 năm gần đây, tốc độ tăng trưởng duy trì từ 20-25% một năm.
- Cách đây khoảng 10 năm, quy mô thị trường TMĐT bán lẻ của Việt Nam vào thời điểm đó đạt khoảng 2,2 tỷ USD, nhưng đến năm 2023, theo thống kê, đánh giá của Bộ Công Thương thì quy mô thị trường TMĐT bán lẻ đã đạt mức 20,5 tỷ USD, chiếm 8% tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng toàn quốc. Tỷ lệ này đang được dự đoán đạt 10% vào năm 2025. “TMĐT phát triển nhanh và mạnh đã đóng góp rất tích cực cho việc phát triển mô hình thương mại khá hiện đại trong những năm qua, đặc biệt trong giai đoạn đại dịch COVID-19 khi giãn cách xã hội và giảm sự tiếp xúc giữa các đối tượng. Đây là phương thức rất hiệu quả để có thể phân phối hàng hóa, dịch vụ đến với người tiêu dùng cuối. Đồng thời, đây cũng là kênh để các DN vừa, nhỏ, siêu nhỏ có thể tham gia kinh doanh, mở rộng thị trường, nâng cao thu nhập cũng như tăng sức cạnh tranh của mình trên thị trường trong và ngoài nước”, bà Lại Việt Anh nhận định.
- Tuy nhiên, tốc độ tăng trưởng nhanh cũng đặt ra bài toán phải phát triển bền vững. Đó là bảo đảm được sự cạnh tranh lành mạnh cũng như bảo đảm việc tuân thủ pháp luật của chủ thể tham gia thị trường, trong đó có việc tuân thủ nghĩa vụ về thuế.
- Theo thống kê của Tổng cục Thuế, doanh thu thuế từ TMĐT tăng đều qua các năm: 83.000 tỷ đồng (năm 2022), 97.000 tỷ đồng (năm 2023) và chỉ trong 7 tháng đầu năm 2024 đã đạt hơn 78.000 tỷ đồng. Sự gia tăng mạnh mẽ này không chỉ đến từ các DN trong nước, mà còn từ các nền tảng quốc tế như Google, Facebook và Amazon.
Theo bà Nguyễn Thị Lan Anh – Vụ trưởng Vụ Quản lý thuế DN nhỏ và vừa và hộ kinh doanh, cá nhân (Tổng cục Thuế) cho biết:
- Để nâng cao hiệu quả công tác quản lý thuế đối với hoạt động TMĐT, thời gian qua, Tổng cục Thuế đã đẩy mạnh tuyên truyền, hỗ trợ hướng dẫn NNT tham gia hoạt động kinh doanh TMĐT thực hiện kê khai, nộp thuế theo quy định pháp luật. Ngoài ra, Tổng cục Thuế cũng đã phối hợp với các sàn trong nước, các nền tảng TMĐT nước ngoài tuyên truyền về nghĩa vụ thuế của các tổ chức, các nhân kinh doanh trên các nền tảng.
- Ngành Thuế cũng tiếp tục cung cấp các dịch vụ thuế điện tử để hỗ trợ việc kê khai, nộp thuế ở mức 4.0, bảo đảm NNT có thể thực hiện đăng ký thuế, khai thuế, nộp thuế, cung cấp thông tin hoàn toàn theo hình thức điện tử.
- Đặc biệt, trong thời gian tới, Tổng cục Thuế sẽ đưa vào vận hành Cổng thông tin điện tử dành cho các cá nhân, hộ kinh doanh phát sinh hoạt động kinh doanh TMĐT có thể thực hiện các nghĩa vụ thuế một cách thuận tiện. Đây cũng là kênh thông tin để cho NNT thực hiện theo đúng quy định pháp luật.
- Ngành Thuế đã đề xuất giải pháp sửa đổi chính sách thuế một cách đồng bộ, thống nhất, không những thống nhất trong ngành Thuế mà còn thống nhất trong các bộ, ngành có liên quan đến hoạt động TMĐT. “Chúng tôi đề xuất bổ sung quy định pháp luật theo hướng tăng cường trách nhiệm của tổ chức là chủ sở hữu sàn giao dịch TMĐT, yêu cầu sàn giao dịch TMĐT có chức năng đặt hàng trực tuyến có trách nhiệm khấu trừ khai thuế thay, nộp thuế thay cho các cá nhân kinh doanh trên sàn giao dịch TMĐT. Giải pháp này góp phần cải cách thủ tục hành chính, giảm đầu mối kê khai thuế, đồng thời xét về tổng thể sẽ làm giảm chi phí tuân thủ thủ tục hành chính cho toàn xã hội do thay vì hàng chục nghìn cá nhân trực tiếp khai thuế với cơ quan thuế thì chỉ cần một đầu mối là sàn giao dịch TMĐT khai, nộp thuế thay”, đại diện Tổng cục Thuế chia sẻ.
- Cùng với đó, ngành Thuế cũng liên tục làm giàu cơ sở dữ liệu lớn về TMĐT, thu thập thông tin từ nhiều nguồn, đó là thông tin do sàn cung cấp, thông tin do các nền tảng xuyên biên giới cung cấp, thông tin thu thập được qua công tác kiểm tra, thông tin thu thập trên internet, thông tin kết nối chia sẻ từ các bộ ngành.
2. Áp dụng công nghệ số để quản lý
Theo đánh giá của PGS.TS. Đinh Trọng Thịnh – chuyên gia kinh tế:
- Nỗ lực của Tổng cục Thuế, cũng như các cơ quan ban, ngành có liên quan như Bộ Thông tin và Truyền thông, Bộ Công Thương hay Ngân hàng Nhà nước, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố, chính quyền các địa phương trong việc kết hợp để quản lý các đối tượng kinh doanh TMĐT khác nhau trên địa bàn là rất đáng ghi nhận. Đặc biệt, trong thời gian gần đây, khi chúng ta có VneID, việc tích hợp các dữ liệu của rất nhiều cơ quan đang tạo điều kiện thuận lợi cho không chỉ Tổng cục Thuế quản lý TMĐT này mà còn tạo điều kiện để chúng ta quản lý tốt hơn các lĩnh vực khác liên quan đến cả kinh tế và xã hội.
- Tuy nhiên, theo vị chuyên gia này, thời gian qua, những “ông lớn” như Google, Amazon,… đóng góp doanh thu không nhỏ cho trên thị trường Việt Nam, nhưng lượng thuế họ nộp chưa tương xứng. Rõ ràng cần phải có cơ sở thống kê dữ liệu, các kho dữ liệu lớn và các phương pháp quản lý để từ đó chúng ta có bằng chứng để có thể thu đúng, thu đủ từ các “ông lớn” này.
- Phải xây dựng cơ sở dữ liệu lớn, kho dữ liệu vì nó không chỉ phục vụ cho cơ quan thuế để thu đúng, thu đủ, mà còn phục vụ cho việc bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng cũng như việc bảo vệ an sinh xã hội. Tiếp theo là việc ứng dụng công nghệ, phải dùng chính công nghệ mới và công nghệ số để quản lý hoạt động TMĐT hiệu quả.
- Cùng với đó, việc tuyên truyền để người kinh doanh chủ động nộp thuế đúng, đủ cho Nhà nước. Trên cơ sở như vậy, kể cả các chủ thể không có thể nhân ở Việt Nam nhưng người Việt Nam tiêu dùng hàng hóa của họ vẫn buộc họ phải nộp thuế cho Chính phủ Việt Nam. “Tôi cho rằng, kết hợp giữa các bộ, ban, ngành, kết hợp giữa tuyên truyền, quảng cáo và ý thức của người dân đối với hoạt động quản lý và thu thuế từ TMĐT sẽ là cơ sở chúng ta có thể quản lý TMĐT một cách phù hợp và sâu sát hơn”, ông Đinh Trọng Thịnh nhận định.
Dưới góc độ quản lý thuế, bà Nguyễn Thị Lan Anh cho biết, hiện nay, Bộ Tài chính cũng đang trình Chính phủ sửa Nghị định số 123/2020/NĐ-CP quy định về hóa đơn, chứng từ. Tổng cục Thuế đã có đề xuất quản lý đối với TMĐT, đó là việc các tổ chức, cá nhân, các hộ kinh doanh có thể ủy quyền cho các sàn giao dịch điện tử để các sàn này có thể xuất hóa đơn thay cho người kinh doanh thông qua sàn. Thông qua giải pháp này, tất cả các giao dịch TMĐT dù lớn hay nhỏ, giá trị bao nhiêu cũng sẽ được xuất hóa đơn đầy đủ. “Xuất hóa đơn đầy đủ sẽ hỗ trợ quản lý thuế, quản lý doanh thu và quản lý giao dịch có hợp pháp hay không, giúp người bán hàng chứng minh được nguồn gốc hàng hóa, lúc đó hàng hóa trong thị trường Việt Nam có thể nâng cao tính cạnh tranh, chống hàng giả, hàng nhái và hàng kém chất lượng trên thị trường, đặc biệt là sẽ bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, góp phần tạo điều kiện tạo thị trường cạnh tranh lành mạnh”, bà Nguyễn Thị Lan Anh chia sẻ.
XII. Phối hợp ngăn chặn lưu thông hàng hóa không có hóa đơn giá trị gia tăng hợp pháp
Tổng cục Thuế yêu cầu Cục Thuế các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương tăng cường phối hợp thực hiện chống buôn lậu, gian lận thương mại và hàng giả trong lĩnh vực thuế trong thời gian tới.
- Để triển khai thực hiện hiệu quả công tác chống buôn lậu, gian lận thương mại và hàng giả lĩnh vực thuế, nhất là trong những tháng cuối năm, Tổng cục Thuế đề nghị các cục thuế tiếp tục quán triệt, thực hiện nghiêm túc, hiệu quả các nghị quyết, chỉ thị, công điện, kế hoạch và văn bản chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Trưởng Ban Chỉ đạo 389 quốc gia, Ban Chỉ đạo 389 Bộ Tài chính về công tác chống buôn lậu, gian lận thương mại và hàng giả.
- Cùng với đó, các cục thuế cần tăng cường kiểm tra, kiểm soát các hoạt động của NNT, quản lý chặt chẽ hoạt động sử dụng hoá đơn giá trị gia tăng. Trong đó, tăng cường quản lý thuế, tập trung thanh tra, kiểm tra chống thất thu thuế đối với các lĩnh vực, nội dung có rủi ro cao như: TMĐT và kinh doanh trên nền tảng số; hoàn thuế; chuyển giá; chuyển nhượng bất động sản; chuyển nhượng vốn; mua bán, sử dụng hóa đơn bất hợp pháp; hợp thức hóa hàng nhập lậu, trốn thuế…
- Tổng cục Thuế yêu cầu các cục thuế đẩy mạnh phối hợp với các bộ, ngành, cơ quan chức năng trong quản lý thuế, đặc biệt là cơ quan Hải quan, Quản lý thị trường để xác minh nguồn gốc hàng hóa, nắm bắt, trao đổi thông tin về các thủ đoạn gian lận đối với hàng xuất khẩu, nhập khẩu có dấu hiệu trốn thuế, gian lận hoàn thuế giá trị gia tăng. Đồng thời, chủ động phối hợp với cơ quan Quản lý thị trường đẩy mạnh chương trình chống buôn bán lưu thông hàng hóa không có hóa đơn giá trị gia tăng hợp pháp; Phối hợp cơ quan Công an để thực hiện xác minh các giao dịch kinh tế phát sinh; Phối hợp với cơ quan Ngân hàng, Thanh tra, giám sát ngân hàng – Ngân hàng Nhà nước để xác minh việc thanh toán qua ngân hàng, kiểm tra, xử lý các giao dịch qua ngân hàng có dấu hiệu đáng ngờ.
- Tổng cục Thuế đề nghị các cục thuế đề cao trách nhiệm của người đứng đầu các cấp trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được giao; tổ chức quán triệt, chỉ đạo công chức, viên chức, người lao động nắm vững, thực hiện đúng, đầy đủ các quy định pháp luật, quy trình nghiệp vụ. Đồng thời đẩy mạnh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, đấu tranh, ngăn chặn đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; xây dựng đội ngũ cán bộ công chức, viên chức đảm bảo yêu cầu công tác trong tình hình mới. Cùng với đó, cần thực hiện nghiêm túc, đầy đủ chế độ thông tin, báo cáo, sơ kết, tổng kết đánh giá tình hình, kết quả công tác chống buôn lậu, gian lận thương mại và hàng giả; Thường xuyên rà soát những khó khăn, vướng mắc mới phát sinh, bất cập, sơ hở, chồng chéo (nếu có) báo cáo về Tổng cục Thuế để kịp thời nắm bắt và chỉ đạo chung toàn Ngành.
XIII. Các chính sách gia hạn, miễn giảm thuế trong các trường hợp thiên tai
Cục Thuế Hà Nội vừa có thư ngỏ gửi đến NNT phổ biến chính sách gia hạn, miễn, giảm thuế đối với NNT gặp thiên tai nhằm hỗ trợ, tháo gỡ khó khăn cho DN, NNT trên địa bàn.
Cục Thuế Hà Nội cho biết, những ngày qua, do ảnh hưởng trực tiếp của bão số 3 (Yagi), khu vực miền Bắc, trong đó có TP. Hà Nội đã phải chịu thiệt hại nặng nề về tài sản, vật chất dẫn đến ảnh hưởng lâu dài trong khắc phục sản xuất của các tổ chức, cá nhân, DN. Trước thực trạng đó, Cục Thuế Hà Nội đã thông tin tới NNT về các chính sách gia hạn, miễn, giảm trong trường hợp gặp thiên tai theo quy định của pháp luật thuế để NNT biết và chủ động thực hiện các thủ tục để được hưởng quyền lợi.
1. Miễn tiền chậm nộp, miễn, giảm tiền phạt vi phạm hành chính về thuế
Cục Thuế Hà Nội cho biết, với trường hợp NNT không có khả năng nộp hồ sơ khai thuế đúng thời hạn do thiên tai, thảm họa, dịch bệnh, hỏa hoạn, tai nạn bất ngờ thì được thủ trưởng cơ quan thuế quản lý trực tiếp gia hạn nộp hồ sơ khai thuế. Tuy nhiên, NNT phải nộp tiền chậm nộp theo quy định được miễn tiền chậm nộp trong trường hợp bất khả kháng.
Đối với trường hợp NNT bị phạt tiền do vi phạm hành chính về quản lý thuế mà bị thiệt hại trong trường hợp bất khả kháng thì được miễn tiền phạt. Tổng số tiền miễn phạt tối đa không quá giá trị tài sản, hàng hóa bị thiệt hại, sau khi trừ đi giá trị được bảo hiểm, bồi thường (nếu có).
2. Gia hạn nộp thuế, hồ sơ khai thuế
Cục Thuế Hà Nội cho biết, việc gia hạn nộp thuế được xem xét trên cơ sở đề nghị của NNT trong các trường hợp bị thiệt hại vật chất, gây ảnh hưởng trực tiếp đến sản xuất, kinh doanh do gặp trường hợp bất khả kháng (thời gian gia hạn nộp thuế không quá 2 năm kể từ ngày hết thời hạn nộp thuế).
NNT không có khả năng nộp hồ sơ khai thuế đúng thời hạn do thiên tai, thảm họa, dịch bệnh, hỏa hoạn, tai nạn bất ngờ thì được thủ trưởng cơ quan thuế quản lý trực tiếp gia hạn nộp hồ sơ khai thuế.
3. Các chính sách miễn, giảm đối với từng sắc thuế
- Đối với thuế giá trị gia tăng, thuế giá trị gia tăng đầu vào của hàng hóa, dịch vụ dùng cho sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ chịu thuế giá trị gia tăng được khấu trừ toàn bộ, kể cả thuế giá trị gia tăng đầu vào không được bồi thường của hàng hoá chịu thuế giá trị gia tăng bị tổn thất.
- Đối với thuế tiêu thụ đặc biệt, NNT sản xuất hàng hóa thuộc diện chịu thuế tiêu thụ đặc biệt gặp khó khăn do thiên tai, tai nạn bất ngờ được giảm thuế. Mức giảm thuế được xác định trên cơ sở tổn thất thực tế do thiên tai, tai nạn bất ngờ gây ra nhưng không quá 30% số thuế phải nộp của năm xảy ra thiệt hại và không vượt quá giá trị tài sản bị thiệt hại sau khi được bồi thường (nếu có).
- Đối với thuế thu nhập DN, trường hợp DN có chi phí liên quan đến phần giá trị tổn thất do thiên tai, dịch bệnh, hỏa hoạn và trường hợp bất khả kháng khác không được bồi thường thì khoản chi này được tính vào chi phí được trừ khi xác định thu nhập chịu thuế.
- Đối với thuế thu nhập cá nhân, đối tượng nộp thuế gặp khó khăn do thiên tai, hỏa hoạn, tai nạn, bệnh hiểm nghèo ảnh hưởng đến khả năng nộp thuế thì được xét giảm thuế tương ứng với mức độ thiệt hại nhưng không vượt quá số thuế phải nộp.
- Đối với thuế sử dụng đất phi nông nghiệp, NNT gặp khó khăn do sự kiện bất khả kháng nếu giá trị thiệt hại về đất và nhà trên đất trên 50% giá tính thuế; NNT gặp khó khăn do sự kiện bất khả kháng nếu giá trị thiệt hại về đất và nhà trên đất từ 20% đến 50% giá tính thuế.
- Đối với thuế tài nguyên, NNT tài nguyên gặp thiên tai, hỏa hoạn, tai nạn bất ngờ gây tổn thất đến tài nguyên đã kê khai, nộp thuế thì được xét miễn, giảm thuế phải nộp cho số tài nguyên bị tổn thất; trường hợp đã nộp thuế thì được hoàn trả số thuế đã nộp hoặc trừ vào số thuế tài nguyên phải nộp của kỳ sau.
Bạn đang cần tư vấn thiết kế website bán hàng chuyên nghiệp , tham khảo dịch vụ của NKS nhé
NKS - Công ty TNHH Giải pháp Công nghệ Tri Thức Mới
20 năm tư vấn và cung cấp giải pháp xây dựng thương hiệu toàn diện trên Internet
222 Lê Văn Sỹ, Phường 14, Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam
Email: system@nks.vn
Website: https://nks.com.vn
Hotline: 0932030958