Bản tin BHXH tháng 4/2024

Mục lục

I. Về thẻ BHYT mẫu mới không ghi ngày hết hạn sử dụng

Thẻ bảo hiểm y tế (BHYT) được ban hành trên cơ sở đảm bảo đúng quy định của Luật BHYT; Nghị định số 146/2018/NĐ-CP ngày 17/10/2018 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn biện pháp thi hành một số điều của Luật BHYT và được sự thống nhất của Bộ Y tế.

Từ ngày 01/08/2017 đến nay, BHXH các tỉnh, thành phố trên cả nước đã triển khai việc cấp mới, đổi, cấp lại thẻ BHYT theo mã số BHXH. Theo đó, thẻ BHYT chỉ ghi “Giá trị sử dụng: từ ngày…/…/…” và không ghi thời điểm hết hạn sử dụng “đến ngày…/…/…”. Qua nhiều năm triển khai thực hiện, thay đổi này đáp ứng yêu cầu cải cách thủ tục hành chính, phù hợp với giai đoạn chuyển đổi số hiện nay và được hầu hết người tham gia hưởng ứng, cụ thể như sau:

  • Thẻ BHYT không ghi hạn sử dụng không chỉ giúp tiết kiệm chi phí in ấn và phát hành thẻ BHYT mà còn tạo thuận lợi hơn cho người tham gia BHYT có thể sử dụng thẻ BHYT lâu dài, không phải mất thời gian làm thủ tục, chờ đổi thẻ BHYT hằng năm như trước. Theo đó, đảm bảo đầy đủ, kịp thời quyền lợi BHYT của người hưởng khi cần có thẻ BHYT để đi khám chữa bệnh.
  • Khi người dân tham gia BHYT thì các thông tin của người tham gia (bao gồm cả các trường hợp thay đổi thông tin) trong đó có thông tin về hạn sử dụng thẻ BHYT được ghi đầy đủ trong cơ sở dữ liệu của cơ quan BHXH. Trên Biên lai thu tiền đóng cơ quan BHXH cấp cho người tham gia lưu giữ cũng thể hiện hạn sử dụng thẻ BHYT. Trước 30 ngày hết hạn sử dụng thẻ, cơ quan BHXH gửi Danh sách người tham gia BHXH tự nguyện, BHYT cho các Tổ chức dịch vụ thu để thông tin, thông báo người tham gia đăng ký đóng tiếp BHYT nhằm duy trì thời hạn sử dụng thẻ BHYT.
  • Bên cạnh đó, BHXH Việt Nam cũng đã cung cấp các tiện ích để người dân có thể dễ dàng tìm hiểu tra cứu thông tin hạn sử dụng thẻ BHYT của mình thông qua nhiều hình thức, gồm:
    • Qua Cổng Thông tin điện tử BHXH Việt Nam: Người dân truy cập địa chỉ website https://baohiemxahoi.gov.vn/tracuu để thực hiện tra cứu thông tin về thẻ BHYT.
    • Qua ứng dụng “VssID – BHXH số” của BHXH Việt Nam: Để tra cứu thời hạn sử dụng thẻ, quá trình tham gia, thụ hưởng chính sách BHYT tại ứng dụng này, người dân cần cài đặt ứng dụng trên nền tảng thiết bị điện thoại di động thông minh và thực hiện đăng ký tài khoản để sử dụng ứng dụng.
    • Qua Tổng đài Chăm sóc khách hàng của BHXH Việt Nam: Người dân liên hệ với Tổng đài theo số 1900 9068 để được cung cấp thông tin.
    • Liên hệ trực tiếp với cơ quan BHXH, các Tổ chức dịch vụ thu BHXH nơi tham gia BHYT.

Như vậy, cơ quan BHXH đã cung cấp nhiều kênh thông tin và tiện ích, giúp người tham gia chủ động theo dõi hạn sử dụng thẻ BHYT để kịp thời gia hạn thẻ (khi thẻ BHYT sắp hết hạn). Thời gian tới, để tất cả người dân đều có thể theo dõi, tra cứu hạn sử dụng thẻ BHYT một cách tiện lợi và dễ dàng, ngành BHXH Việt Nam sẽ tiếp tục đẩy mạnh các giải pháp truyền thông, đồng thời nghiên cứu, bổ sung thêm các tiện ích nhằm đáp ứng sự hài lòng của đông đảo nhân dân và người lao động.

II. Bộ Tài chính đề nghị tính toán lại mức điều chỉnh lương hưu, trợ cấp BHXH cho phù hợp

Bộ Tài chính có công văn gửi Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội (LĐ-TB&XH) về đánh giá tác động của chính sách tiền lương mới từ ngày 01/07/2024 tới đến việc thực hiện chính sách BHXH.

Bộ Tài chính cho biết:

  • Ước tính sơ bộ, nhu cầu kinh phí ngân sách nhà nước năm 2024 tăng thêm so với dự toán chi ngân sách nhà nước năm 2024 đã được cấp có thẩm quyền giao để thực hiện phương án đề xuất của Bộ LĐ-TB&XH là tăng lương hưu, trợ cấp BHXH 15%; tăng chi trợ cấp ưu đãi người có công cách mạnh 29,2% (từ 2.055.000 đồng lên 2.655.000 đồng); tăng trợ cấp xã hội 38,9% (từ 360.000 đồng lên 500.000 đồng). Với mức tăng trên thì tổng kinh phí chi trả là 17.276 tỷ đồng vượt khả năng cân đối của dự toán ngân sách nhà nước năm 2024 đã được Quốc hội quyết định tối đa là 7.430 tỷ đồng. Do đó, Bộ Tài chính đề nghị Bộ LĐ-TB&XH phối hợp với các cơ quan liên quan rà soát, xác định cụ thể các mức điều chỉnh, để trình cấp có thẩm quyền quyết định các mức tăng trên cơ sở khả năng cân đối của ngân sách Nhà nước.
  • Theo Bộ Tài chính, hiện nay có nhiều chế độ BHXH, BHYT quy định tại Luật BHXH, Luật An toàn, vệ sinh lao động, Luật BHYT; một số chế độ về an sinh xã hội (học bổng chính sách, hỗ trợ chi phí học tập cho một số đối tượng học sinh, sinh viên quy định tại Luật Giáo dục…). Khi thực hiện cải cách tiền lương khu vực công từ ngày 01/07/2024 sẽ tác động trực tiếp đến chế độ BHXH, BHYT, chế độ đối với học sinh, sinh viên, do không còn quy định về mức lương cơ sở. Tuy nhiên tại thời điểm ngày 01/07/2024, Luật BHXH, Luật An toàn vệ sinh lao động, Luật BHYT, Luật Giáo dục vẫn còn hiệu lực, chưa có văn bản thay thế.
  • Do đó để đảm bảo tính pháp lý, thống nhất trong thực hiện, Bộ Tài chính đã đề nghị Bộ LĐ-TB&XH chủ trì, phối hợp với Bộ Y tế, Bộ Giáo dục và Đào tạo… rà soát, nghiên cứu để báo cáo Chính phủ trình Quốc hội tại kỳ họp tháng 5/2024.

Bộ Tài chính cũng cho biết, trong điều kiện cân đối ngân sách trung ương khó khăn, nguồn bố trí điều chỉnh lương hưu và một số chính sách trợ cấp, an sinh xã hội rất hạn chế, trong khi một số địa phương vẫn tiếp tục dư nguồn cải cách tiền lương lớn.

Vì vậy, để chủ động nguồn điều chỉnh các chính sách, và giảm áp lực bố trí ngân sách trung ương hỗ trợ các địa phương, Bộ Tài chính đề xuất Bộ LĐ-TB&XH báo cáo cấp có thẩm quyền, cho phép sử dụng nguồn cải cách tiền lương tích lũy của ngân sách trung ương, và nguồn cải cách tiền lương của các địa phương còn dư, sau khi đảm bảo đủ nhu cầu cải cách tiền lương được sử dụng để thực hiện việc điều chỉnh lương hưu và các loại trợ cấp nêu trên.

III. Những trường hợp nghỉ hưu sớm không bị trừ tỷ lệ hưởng lương hưu

Khoản 1 Điều 4 Nghị định 135/2020/NĐ-CP quy định: Kể từ ngày 01/01/2021, tuổi nghỉ hưu của người lao động trong điều kiện lao động bình thường là đủ 60 tuổi 3 tháng đối với lao động nam và đủ 55 tuổi 4 tháng đối với lao động nữ; sau đó, cứ mỗi năm tăng thêm 3 tháng đối với lao động nam cho đến khi đủ 62 tuổi vào năm 2028 và cứ mỗi năm tăng thêm 4 tháng đối với lao động nữ cho đến khi đủ 60 tuổi vào năm 2035.

Vì vậy, tuổi nghỉ hưu của người lao động trong điều kiện bình thường năm 2023 là: 60 tuổi 9 tháng với lao động nam và 56 tuổi với lao động nữ. Sang năm 2024, tuổi nghỉ hưu của người lao động trong điều kiện bình thường là: 61 tuổi với lao động nam và 56 tuổi 4 tháng với lao động nữ.

Nếu người lao động nghỉ hưu trước các mốc tuổi nghỉ hưu theo từng năm nêu trên thì xác định là nghỉ hưu sớm và bị trừ tỷ lệ hưởng lương hưu. Cụ thể, theo Điều 54 Luật BHXH 2014, hầu hết những trường hợp nghỉ trước tuổi sẽ bị trừ tỷ lệ hưởng với mức 2% cho mỗi năm nghỉ hưu trước tuổi. Ngoại trừ các trường hợp sau:

1. Cán bộ, công chức, viên chức

Theo quy định tại Điều 5 Nghị định 29/2023/NĐ-CP thì cán bộ, công chức, viên chức nghỉ hưu sớm mà không bị trừ tỷ lệ hưởng lương hưu khi thuộc 5 trường hợp tinh giản biên chế, bao gồm:

  • Đối tượng tinh giản biên chế có tuổi thấp hơn tối đa đủ 5 tuổi và thấp hơn tối thiểu đủ 2 tuổi so với tuổi nghỉ hưu thấp nhất theo quy định và có đủ 20 năm đóng BHXH bắt buộc trở lên, trong đó có đủ 15 năm làm nghề, công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm hoặc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm thuộc danh mục do Bộ LĐ-TB&XH ban hành hoặc có đủ 15 năm trở lên làm việc ở vùng có điều kiện kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn do Bộ LĐ-TB&XH ban hành bao gồm cả thời gian làm việc ở nơi có phụ cấp khu vực hệ số 0,7 trở lên trước ngày 01/01/2021.
  • Đối tượng tinh giản biên chế có tuổi thấp hơn tối đa đủ 5 tuổi và thấp hơn tối thiểu đủ 2 tuổi so với tuổi nghỉ hưu trong điều kiện lao động bình thường theo quy định và có đủ 20 năm đóng BHXH bắt buộc trở lên thì được hưởng lương hưu theo quy định tại Điều 54 Luật BHXH năm 2014 (được sửa đổi bởi điểm a khoản 1 Điều 219 Bộ luật Lao động 2019).
  • Đối tượng tinh giản biên chế có tuổi tối thiểu thấp hơn 2 tuổi so với tuổi nghỉ hưu thấp nhất và có đủ 20 năm đóng BHXH bắt buộc trở lên, trong đó có đủ 15 năm làm nghề, công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm hoặc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm thuộc danh mục do Bộ LĐ-TB&XH ban hành hoặc có đủ 15 năm làm việc ở vùng có điều kiện kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn do Bộ LĐ-TB&XH ban hành bao gồm cả thời gian làm việc ở nơi có phụ cấp khu vực hệ số 0,7 trở lên trước ngày 01/01/2021.
  • Đối tượng tinh giản biên chế có tuổi tối thiểu thấp hơn 2 tuổi so với tuổi nghỉ hưu trong điều kiện lao động bình thường và có đủ 20 năm đóng BHXH bắt buộc trở lên (riêng nữ cán bộ, công chức cấp xã thì có từ đủ 15 năm đóng BHXH bắt buộc trở lên).
  • Đối tượng tinh giản biên chế là nữ cán bộ, công chức cấp xã có tuổi thấp hơn tối đa đủ 5 tuổi và thấp hơn tối thiểu đủ 2 tuổi so với tuổi nghỉ hưu trong điều kiện lao động bình thường mà có đủ 15 năm đến dưới 20 năm đóng BHXH bắt buộc.

2. Người lao động

Căn cứ khoản 2 Điều 56 Luật BHXH 2014 thì người lao động đủ điều kiện hưởng lương hưu theo quy định tại Điều 54 Luật BHXH 2014 thì được hưởng lương hưu hằng tháng.

Căn cứ Điều 54 Luật BHXH 2014 (được sửa đổi bởi điểm a khoản 1 Điều 219 Bộ luật Lao động 2019) thì các trường hợp nghỉ hưu sớm mà không bị trừ tỷ lệ hưởng lương hưu bao gồm:

  • Người lao động có đủ 15 năm làm việc ở vùng có điều kiện kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn bao gồm cả thời gian làm việc ở nơi có phụ cấp khu vực hệ số 0,7 trở lên trước ngày 01/01/2021.
  • Căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 54 Luật BHXH 2014 (được sửa đổi bởi điểm a khoản 1 Điều 219 Bộ luật Lao động 2019), người lao động đủ tuổi theo quy định tại khoản 3 Điều 169 Bộ luật Lao động 2019 và có đủ 15 năm làm nghề, công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm hoặc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm thuộc danh mục do Bộ LĐ-TB&XH ban hành hoặc có đủ 15 năm làm việc ở vùng có điều kiện kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn bao gồm cả thời gian làm việc ở nơi có phụ cấp khu vực hệ số 0,7 trở lên trước ngày 01/01/2021;
  • Người lao động có tuổi thấp hơn tối đa 10 tuổi so với tuổi nghỉ hưu của người lao động quy định tại khoản 2 Điều 169 Bộ luật Lao động 2019. Trong đó có đủ 15 năm làm công việc khai thác than trong hầm lò theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 54 Luật BHXH 2014 (được sửa đổi bởi điểm a khoản 1 Điều 219 Bộ luật Lao động 2019).
  • Người bị nhiễm HIV do tai nạn rủi ro nghề nghiệp trong khi thực hiện nhiệm vụ được giao.

Người lao động trong trường hợp này sẽ không bị trừ tỷ lệ lương hưu theo quy định tại điểm d khoản 1 Điều 54 Luật BHXH 2014 (được sửa đổi bởi điểm a khoản 1 Điều 219 Bộ luật Lao động 2019).

IV. 15 quyền lợi về lao động và BHXH của lao động nữ

Lao động nữ khi tham gia lao động sẽ gặp các vấn đề về sức khỏe, sinh con, thời gian hành kinh… Dưới đây là 15 quyền lợi mà người lao động (NLĐ) nữ được hưởng và người sử dụng lao động phải lưu ý trong quá trình sử dụng lao động nữ, cụ thể như sau:

1. Được khám chuyên khoa phụ sản 1 lần/năm

Căn cứ khoản 1, 2 Điều 21 Luật An toàn, vệ sinh lao động và khoản 1 Điều 80 Nghị định 145/2020/NĐ-CP, NLĐ được khám sức khỏe ít nhất 1 lần/năm. Đối với NLĐ làm nghề, công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm hoặc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm, NLĐ là người khuyết tật, NLĐ chưa thành niên, NLĐ cao tuổi được khám sức khỏe ít nhất 06 tháng một lần.

Tại các kỳ khám sức khỏe định kỳ, nếu NLĐ là nữ sẽ phải được khám chuyên khoa phụ sản theo danh mục khám chuyên khoa phụ sản do Bộ Y tế ban hành.

2. Được nghỉ 30 phút/ngày trong thời gian hành kinh

Theo quy định tại khoản 4 Điều 137 Bộ luật Lao động 2019, khoản 3 Điều 80 Nghị định 145/2020/NĐ-CP, lao động nữ trong thời gian hành kinh được nghỉ mỗi ngày 30 phút, tính vào giờ làm việc và hưởng đủ lương theo hợp đồng lao động.

Số ngày có thời gian nghỉ trong thời gian hành kinh do hai bên thỏa thuận nhưng tối thiểu là 03 ngày làm việc/tháng.

Trường hợp không có nhu cầu nghỉ và được người sử dụng lao động đồng ý thì NLĐ sẽ được trả thêm tiền lương tương ứng với thời gian được nghỉ mà vẫn làm việc.

3. Được nghỉ 60 phút/ngày trong thời gian nuôi con dưới 12 tháng tuổi

Khoản 4 Điều 137 Bộ luật Lao động 2019 và Khoản 4 Điều 80 Nghị định 145/2020/NĐ-CP quy định lao động nữ trong thời gian nuôi con dưới 12 tháng tuổi được nghỉ 60 phút/ngày trong thời gian làm việc để cho con bú, vắt, trữ sữa, nghỉ ngơi. Thời gian nghỉ vẫn được hưởng đủ tiền lương theo hợp đồng lao động.

4. Được chuyển công việc nhẹ hơn khi mang thai và nuôi con dưới 12 tháng tuổi

Theo khoản 2 Điều 137 Bộ luật Lao động 2019, lao động nữ làm nghề, công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm hoặc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm hoặc làm nghề, công việc có ảnh hưởng xấu tới chức năng sinh sản và nuôi con khi mang thai và có thông báo cho người sử dụng lao động biết thì được người sử dụng lao động chuyển sang làm công việc nhẹ hơn, an toàn hơn mà không bị cắt giảm tiền lương và quyền, lợi ích cho đến hết thời gian nuôi con dưới 12 tháng tuổi.

Đồng thời, Điều 142 Bộ luật Lao động 2019 cũng quy định người sử dụng lao động phải cung cấp đầy đủ thông tin về tính chất nguy hiểm, nguy cơ, yêu cầu của công việc để NLĐ lựa chọn và phải bảo đảm điều kiện an toàn, vệ sinh lao động cho NLĐ theo quy định khi sử dụng họ làm công việc thuộc danh mục nghề, công việc có ảnh hưởng xấu tới chức năng sinh sản và nuôi con (Phụ lục kèm theo Thông tư 10/2020/TT-BLĐTBXH).

5. Không phải làm đêm, làm thêm, đi công tác xa khi mang thai hoặc nuôi con nhỏ

Theo khoản 1 Điều 137 Bộ luật Lao động 2019, người sử dụng lao động không được sử dụng lao động nữ làm việc ban đêm, làm thêm giờ và đi công tác xa trong trường hợp sau đây:

  • Mang thai từ tháng thứ 07 hoặc từ tháng thứ 06 nếu làm việc ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo;
  • Đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi, trừ trường hợp được NLĐ đồng ý.

6. Được ưu tiên giao kết hợp đồng lao động mới khi hợp đồng hết hạn trong thời gian mang thai hoặc nuôi con nhỏ

Theo khoản 3 Điều 137 Bộ luật Lao động 2019, trường hợp hợp đồng lao động hết hạn trong thời gian lao động nữ mang thai hoặc nuôi con dưới 12 tháng tuổi thì được ưu tiên giao kết hợp đồng lao động mới.

7. Không bị xử lý kỷ luật khi mang thai và nuôi con nhỏ

Căn cứ điểm d khoản 4 Điều 122 Bộ luật Lao động 2019, người sử dụng lao động không được xử lý kỷ luật đối với NLĐ đang trong thời gian mang thai; nghỉ thai sản, nuôi con dưới 12 tháng tuổi.

Do đó, nếu vi phạm nội quy lao động trong thời gian mang thai và nuôi con dưới 12 tháng tuổi, lao động nữ sẽ không bị xử lý kỷ luật.

Tuy nhiên, hết thời gian mang thai, nghỉ thai sản, nuôi con dưới 12 tháng thì lao động nữ vẫn có thể bị xử lý kỷ luật do thời hiệu xử lý kỷ luật lao động có thể kéo dài.

8. Được nghỉ thai sản trước và sau sinh con 6 tháng

Theo Điều 139 Bộ luật Lao động 2019, chế độ thai sản đối với lao động nữ quy định như sau:

  • Lao động nữ được nghỉ thai sản trước và sau khi sinh con là 06 tháng; thời gian nghỉ trước khi sinh không quá 02 tháng.
  • Trường hợp lao động nữ sinh đôi trở lên thì tính từ con thứ 02 trở đi, cứ mỗi con, người mẹ được nghỉ thêm 01 tháng.
  • Trong thời gian nghỉ thai sản, lao động nữ được hưởng chế độ thai sản theo quy định của pháp luật về BHXH.
  • Hết thời gian nghỉ thai sản, nếu có nhu cầu, lao động nữ có thể nghỉ thêm một thời gian không hưởng lương sau khi thỏa thuận với người sử dụng lao động.
  • Trước khi hết thời gian nghỉ thai sản, lao động nữ có thể trở lại làm việc khi đã nghỉ ít nhất được 04 tháng nhưng NLĐ phải báo trước, được người sử dụng lao động đồng ý và có xác nhận của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có thẩm quyền về việc đi làm sớm không có hại cho sức khỏe của NLĐ. Trong trường hợp này, ngoài tiền lương của những ngày làm việc do người sử dụng lao động trả, lao động nữ vẫn tiếp tục được hưởng trợ cấp thai sản theo quy định của pháp luật về BHXH.

9. Được đảm bảo việc làm sau chế độ thai sản

Điều 140 Bộ luật Lao động 2019 yêu cầu NLĐ phải được bảo đảm việc làm cũ khi trở lại làm việc sau khi nghỉ hết thời gian theo quy định tại Điều 139 Bộ luật Lao động 2019 mà không bị cắt giảm tiền lương và quyền, lợi ích so với trước khi nghỉ thai sản; trường hợp việc làm cũ không còn thì người sử dụng lao động phải bố trí việc làm khác cho họ với mức lương không thấp hơn mức lương trước khi nghỉ thai sản.

10. Không bị sa thải hoặc đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động khi mang thai, nghỉ thai sản, nuôi con dưới 12 tháng tuổi

    Điều 137 Bộ luật Lao động 2019 nghiêm cấm người sử dụng lao động không được sa thải hoặc đơn phương chấm dứt hợp đồng với NLĐ vì lý do kết hôn, mang thai, nghỉ thai sản, nuôi con dưới 12 tháng tuổi.

    11. Được lắp đặt phòng vắt, trữ sữa mẹ nếu doanh nghiệp sử dụng hơn 1.000 lao động nữ

    Khoản 5 Điều 80 Nghị định 145/2020/NĐ-CP quy định trường hợp người sử dụng lao động sử dụng từ 1000 NLĐ nữ trở lên thì phải lắp đặt phòng vắt, trữ sữa mẹ tại nơi làm việc.

    Đồng thời, khuyến khích người sử dụng lao động lắp đặt phòng vắt, trữ sữa mẹ phù hợp với điều kiện thực tế tại nơi làm việc, nhu cầu của lao động nữ và khả năng của người sử dụng lao động.

    12. Được quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng khi mang thai

    Theo khoản 1 Điều 138 Bộ luật Lao động 2019, lao động nữ mang thai nếu tiếp tục làm việc mà có ảnh hưởng xấu tới thai nhi và có xác nhận của cơ sở khám chữa bệnh thì có thể đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động.

    Trường hợp này vẫn được coi là đơn phương chấm dứt hợp đồng hợp pháp dù không đảm bảo thời gian báo trước theo quy định của pháp luật.

    13. Được tạm hoãn hợp đồng lao động khi mang thai

    Điều 138 Bộ luật Lao động 2019 cho phép lao động nữ mang thai mà có xác nhận của cơ sở khám chữa bệnh có thẩm quyền về việc tiếp tục làm việc sẽ ảnh hưởng xấu tới thai nhi, được quyền tạm hoãn thực hiện hợp đồng lao động.

    Khi tạm hoãn hợp đồng, lao động nữ mang thai phải thông báo cho người sử dụng kèm theo xác nhận của cơ sở khám, chữa bệnh.

    Trường hợp tạm hoãn thực hiện hợp đồng lao động, thời gian tạm hoãn do NLĐ thỏa thuận với người sử dụng lao động nhưng tối thiểu phải bằng thời gian do cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có thẩm quyền chỉ định tạm nghỉ. Trường hợp không có chỉ định của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có thẩm quyền về thời gian tạm nghỉ thì hai bên thỏa thuận về thời gian tạm hoãn thực hiện hợp đồng lao động.

    14. Bình đẳng với lao động nam về lương, thưởng, thăng tiến

    Theo khoản 1 Điều 78 Nghị định 145/2020/NĐ-CP, người sử dụng lao động có trách nhiệm thực hiện quyền bình đẳng của lao động nữ, lao động nam, thực hiện các biện pháp bảo đảm bình đẳng giới trong tuyển dụng, sử dụng, đào tạo, tiền lương, khen thưởng, thăng tiến, trả công lao động, các chế độ về BHXH, BHYT, bảo hiểm thất nghiệp, điều kiện lao động, an toàn lao động, thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi, ốm đau, thai sản, các chế độ phúc lợi khác về vật chất và tinh thần.

    15. Được hưởng BHXH chế độ thai sản

    Theo quy định tại Điều 32 Luật BHXH 2014, trong thời gian mang thai, lao động nữ được nghỉ việc đi khám thai 05 lần, mỗi lần 01 ngày. Trường hợp ở xa cơ sở khám, chữa bệnh hoặc người mang thai có bệnh lý hoặc thai không bình thường thì được nghỉ 02 ngày cho mỗi lần khám thai.

    Khi sẩy thai, nạo, hút thai, thai chết lưu hoặc phá thai bệnh lý thì lao động nữ được nghỉ việc tối đa 10 ngày nếu thai dưới 05 tuần tuổi; 20 ngày nếu thai từ 05 tuần tuổi đến dưới 13 tuần tuổi; 40 ngày nếu thai từ 13 tuần tuổi đến dưới 25 tuần tuổi; 50 ngày nếu thai từ 25 tuần tuổi trở lên (theo Điều 33 Luật BHXH 2014).

    Lao động nữ sinh con được nghỉ việc hưởng chế độ thai sản trước và sau khi sinh con là 06 tháng. Trường hợp sinh đôi trở lên thì tính từ con thứ hai trở đi, cứ mỗi con, người mẹ được nghỉ thêm 01 tháng (theo Điều 34 Luật BHXH 2014).

    V. Tiếp tục rà soát, đảm bảo chất lượng cao nhất cho Dự án Luật BHXH (sửa đổi)

    Chiều 06/03/2024, tại Nhà Quốc hội, Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Chủ tịch Thường trực Quốc hội Trần Thanh Mẫn chủ trì cuộc làm việc với Thường trực cơ quan soạn thảo và cơ quan thẩm tra dự án Luật BHXH (sửa đổi), nhằm rà soát dự án Luật. Bí thư Trung ương Đảng, Phó Thủ tướng Chính phủ Lê Minh Khái đồng chủ trì cuộc làm việc.

    Tham dự cuộc làm việc có các Ủy viên Trung ương Đảng: Chủ nhiệm Ủy ban Xã hội Nguyễn Thúy Anh, Bộ trưởng Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội Đào Ngọc Dung; Thường trực Ủy ban Xã hội và đại diện lãnh đạo các bộ, ngành, cơ quan liên quan. Tổng Giám đốc BHXH Việt Nam Nguyễn Thế Mạnh tham dự cuộc làm việc.

    Phát biểu tại cuộc làm việc, Phó Chủ tịch Thường trực Quốc hội Trần Thanh Mẫn nhận định:

    • Dự án Luật BHXH (sửa đổi) là dự án luật khó, có tác động lớn đến đời sống của người dân, cũng như đến các chủ trương, chính sách của Nhà nước.
    • Phó Chủ tịch Thường trực Quốc hội lưu ý, tại Phiên họp thứ 25, sau khi thảo luận, cho ý kiến về dự án Luật BHXH (sửa đổi), Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã kết luận về nội dung này, trong đó đề nghị Chính phủ tiếp tục đánh giá đầy đủ, toàn diện tác động đối với từng nội dung sửa đổi. Phó Chủ tịch Thường trực Quốc hội nhấn mạnh, nguyên tắc là thể chế hóa những nội dung, yêu cầu của cải cách chính sách BHXH theo đúng tinh thần của Nghị quyết số 28-NQ/TW. Đối với các nội dung có tác động lớn, nhạy cảm thì báo cáo cấp có thẩm quyền xem xét, cho ý kiến trước khi trình Quốc hội.

    Kết luận của Ủy ban Thường vụ Quốc hội cũng đề nghị, cần lưu ý các vấn đề cụ thể về:

    • Hội đồng quản lý quỹ BHXH; mở rộng đối tượng tham gia BHXH bắt buộc; quản lý thu quỹ BHXH; thẩm quyền của cơ quan BHXH; điều kiện về thời gian đóng BHXH tối thiểu để được hưởng lương hưu; về quy định hưởng BHXH một lần; xác định hành vi trốn đóng, chậm đóng BHXH và mức xử phạt; về quản lý quỹ BHXH… Nêu lên những vấn đề này, Phó Chủ tịch Thường trực Quốc hội đề nghị, đại diện cơ quan soạn thảo và các cơ quan liên quan cho ý kiến; trên cơ sở đó các cơ quan chỉnh sửa, hoàn thiện dự thảo Luật trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét, cho ý kiến trước khi trình Quốc hội tại Kỳ họp thứ Bảy.
    • Tại cuộc làm việc, đại diện Thường trực Ủy ban Xã hội đã báo cáo tóm tắt một số nội dung lớn xin ý kiến Ủy ban Thường vụ Quốc hội về tiếp thu, giải trình, chỉnh lý dự thảo Luật BHXH (sửa đổi). Các đại biểu cũng đã tập trung cho ý kiến, làm rõ những vấn đề được nêu trong báo cáo của Thường trực Ủy ban Xã hội như: quy định về hưởng BHXH một lần; tác động của cải cách chính sách tiền lương đến các quy định có liên quan của dự thảo Luật; các chế độ BHXH có liên quan đến lĩnh vực y tế …

    Kết luận sơ bộ cuộc làm việc:

    • Phó Chủ tịch Thường trực Quốc hội đánh giá cao cơ quan soạn thảo đã tiếp thu đầy đủ các ý kiến của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về dự thảo Luật BHXH (sửa đổi). Đặc biệt, Phó Thủ tướng Lê Minh Khái, Bộ trưởng Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, Tổng giám đốc BHXH Việt Nam, Thứ trưởng Bộ Tài chính… đã giải trình và làm sáng tỏ nhiều vấn đề tại cuộc làm việc.
    • Đồng thời, Phó Chủ tịch Thường trực Quốc hội đánh giá cao Ủy ban Xã hội đã phối hợp với Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội, làm việc nghiêm túc, tích cực nhằm tiếp thu, chỉnh lý dự thảo luật. Đáng chú ý, Thường trực Ủy ban Xã hội đã tổ chức 6 cuộc họp với cơ quan chủ trì soạn thảo và các cơ quan có liên quan; tổ chức phiên họp Thường trực Ủy ban mở rộng nhằm cho ý kiến về các nội dung lớn báo cáo xin ý kiến Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
    • Đối với những vấn đề Thường trực Ủy ban Xã hội đặt ra nhưng chưa được trả lời hoặc làm rõ tại cuộc làm việc này, Phó Chủ tịch Thường trực Quốc hội đề nghị, Chính phủ, các bộ, ngành, cơ quan hữu quan cần sớm có văn bản trả lời, làm rõ. Phó Chủ tịch Thường trực Quốc hội cũng đề nghị, Chính phủ, Cơ quan chủ trì soạn thảo tiếp tục nghiên cứu, bổ sung, hoàn thiện các báo cáo, Hồ sơ và giải trình đầy đủ các nội dung để trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến trước khi trình Quốc hội. Phó Chủ tịch Thường trực Quốc hội đề nghị, cơ quan chủ trì thẩm tra tiếp tục lắng nghe ý kiến góp ý nhiều chiều của các cơ quan liên quan, của các đối tượng chịu sự tác động trực tiếp như doanh nghiệp, người lao động… nhằm bảo đảm chất lượng dự thảo Luật tốt nhất khi trình xin ý kiến Quốc hội tại Kỳ họp thứ 7, Quốc hội Khóa XV.

    VI. BHXH Việt Nam tổ chức Hội nghị triển khai thực hiện chính sách BHYT năm 2024

    Sáng ngày 12/03/2024, BHXH Việt Nam tổ chức Hội nghị trực tuyến triển khai thực hiện chính sách BHYT 09 tháng cuối năm 2024. Phó Tổng Giám đốc BHXH Việt Nam Nguyễn Đức Hòa chủ trì hội nghị với sự tham dự của đại diện lãnh đạo một số đơn vị trực thuộc BHXH Việt Nam, BHXH Bộ Quốc phòng, BHXH Công an nhân dân và BHXH các địa phương.

    1. Dự báo nhiều thách thức

    Phát biểu khai mạc Hội nghị, Phó Tổng Giám đốc Nguyễn Đức Hòa nhấn mạnh:

    • Thời gian qua, toàn ngành đã thực hiện tốt chính sách BHYT, được Chính phủ đánh giá cao. Tuy nhiên bước sang năm 2024, thuận lợi và khó khăn đan xen là thức thức lớn, đòi hỏi toàn ngành cần đoàn kết, và nỗ lực với trách nhiệm cao nhất để thực hiện nhiệm vụ chính trị được giao. Trong 9 tháng còn lại của năm 2024, nhiều thách thức đặt ra cho công tác BHYT từ việc tăng độ bao phủ BHYT theo mục tiêu đã đặt ra, đảm quyền lợi của người tham gia BHYT và quản lý, sử dụng quỹ BHYT hiệu quả, đúng quy định.
    • Đề cập những thách thức trong thực hiện chính sách BHYT, Phó Tổng Giám đốc Nguyễn Đức Hòa chỉ rõ:
      • Năm 2024, chúng ta tiếp tục phải triển khai thực hiện các quy định mới, có tác động lớn đến công tác BHYT, đặc biệt là các quy định tại Nghị định số 75/2023/NĐ-CP (Nghị định số 75) ngày 19/10/2023 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 146/2018/NĐ-CP ngày 17/10/2018, Nghị định số 96 hướng dẫn Luật Khám chữa bệnh (KCB), Nghị định số 24 hướng dẫn Luật đấu thầu… Các quy định mới của Nghị định số 75 cần phải triển khai ngay đó là Quy định về lập, giao dự toán chi KCB BHYT và thông báo số dự kiến chi KCB BHYT, trách nhiệm của cơ quan BHXH Việt Nam phải thực hiện rà soát, phát hiện và gửi thông tin cảnh báo kịp thời cho cơ sở KCB về các chi phí KCB tăng cao so với mức chi phí bình quân của cơ sở KCB cùng hạng, cùng tuyến, cùng chuyên khoa.
      • Việc bỏ quy định về tổng mức thanh toán đặt ra cho cơ quan BHXH phải có các giải pháp quản lý sử dụng quỹ hiệu quả thông qua việc giao dự toán và giám sát quá trình thực hiện hợp đồng. Quy định đã được thể chế nhưng công tác tổ chức thực hiện vẫn còn gặp nhiều khó khăn.
      • Bên cạnh đó, Nghị định số 24/2024/NĐ-CP ngày 27/02/2024 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Đấu thầu về lựa chọn nhà thầu, theo đó điều chỉnh việc tham gia của cơ quan BHXH chỉ tham gia khâu xây dựng kế hoạch lựa chọn nhà thầu của các Hội đồng đấu thầu tập trung. Như vậy, cơ quan BHXH sẽ cần tập trung vào việc tham gia thẩm định Kế hoạch lựa chọn nhà thầu đối với mua sắm tập trung và đàm phán giá. “Những thay đổi này phù hợp với trách nhiệm của ngành BHXH Việt Nam, cho thấy sự tham gia của BHXH Việt Nam trong xây dựng các văn bản pháp luật đã phát huy hiệu quả tốt”, Phó Tổng Giám đốc Nguyễn Đức Hòa đánh giá.
      • Các số liệu cho thấy, thời gian qua, BHXH các tỉnh đã có nhiều cố gắng trong kiểm soát chi phí KCB cũng như đảm bảo quyền lợi của người tham gia BHYT. Tuy nhiên chi phí KCB ngày càng gia tăng đặc biệt sau khi Nghị định 75 có hiệu lực và áp dụng giá dịch vụ theo Thông tư số 22 của Bộ Y tế. Trong 2 tháng đầu năm 2024, số lượt KCB BHYT là 27,73 triệu lượt (tăng 3,07 triệu lượt, tương đương tăng 12,4% so với cùng kỳ năm 2023); Số tiền đề nghị thanh toán là 19.316,15 tỷ đồng (tăng 3.250,26 tỷ đồng, tăng 20,23% so với cùng kỳ năm 2023…)

    Tại Hội nghị, các đơn vị của BHXH Việt Nam đã báo cáo đánh giá tình hình KCB 2 tháng đầu năm 2024, nhiệm vụ của các tháng còn lại năm 2024 trong kiểm soát chi phí KCB BHYT; trình bày dự thảo các hướng dẫn: dẫn lập, giao dự toán chi KCB BHYT, xây dựng và thông báo số ước chi cho các cơ sở KCB, để các địa phương tham gia góp ý trước khi BHXH Việt Nam ban hành hướng dẫn chính thức. Ban Cơ sở y tế (CSYT) cũng sẽ trình bày nội dung Hướng dẫn thực hiện quyết toán chi KCB năm 2023 và tổng hợp, cập nhật số liệu C82-HD trên hệ thống thẩm định quyết toán và Trung tâm Giám định và thanh toán đa tuyến trình bày báo cáo Đánh giá việc thực hiện các chuyên đề giám định năm 2023.

    2. Nhiều yếu tố gia tăng chi phí KCB BHYT

    Chia sẻ về tình hình thực hiện chính sách BHYT 02 tháng đầu năm, Trưởng Ban Thực hiện chính sách BHYT (BHXH Việt Nam) Lê Văn Phúc cho biết:

    • Hiện BHXH Việt Nam vẫn đang tích cực tham gia xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến lĩnh vực BHYT (Luật BHYT; Luật Dược, các Thông tư hướng dẫn giá dịch vụ KCB, phương thức thanh toán chi phí KCB BHYT…)
    • Trong công tác quản lý và thanh toán chi phí vật tư y tế cũng còn một số bất cập cần chấn chỉnh, đặc biệt là trong công tác thống kê chi phí như thống kê sai mã vật tư y tế (chủ yếu tập trung tại các loại vật tư y tế thông thường như như Bơm tiêm, Bơm tiêm Insulin, Dây nối, Dây truyền dịch, Kim luồn tĩnh mạch…); nhập sai đơn giá mua vào (đơn giá bệnh viện) thành đơn giá thanh toán…

    Tại Hội nghị, Ban Thực hiện chính sách BHYT cũng hướng dẫn các địa phương thực thực hiện quyết toán KCB BHYT năm 2023 và tổng hợp, cập nhập số liệu C82-HD trên hệ thống thẩm định quyết toán; trình bày dự thảo hướng dẫn lập, giao dự toán chi KCB BHYT và thông báo số dự kiến chi KCB BHYT. Đồng thời đề xuất một số giải pháp thực hiện kiểm soát chi phí KCB BHYT trong năm 2024. Theo đó:

    • Về phía BHXH Việt Nam, cần tiếp tục chủ động tham gia xây dựng chính sách: Luật BHYT sửa đổi, bổ sung; Thông tư quy định phương pháp định giá dịch vụ KCB; Thông tư thay thế Thông tư số 40/2015/TT-BYT…
    • Bên cạnh đó, phối hợp, đôn đốc Bộ Y tế để tiếp tục giải quyết khó khăn, vướng mắc liên quan đến thực hiện quy trình giám định, thanh quyết toán chi phí KCB BHYT, việc mua sắm, sử dụng và thanh toán thuốc, vật tư y tế theo chế độ BHYT; Giao dự toán chi KCB BHYT, hướng dẫn BHXH các tỉnh thông báo số dự kiến chi KCB BHYT, điều hành dự toán.

    Đánh giá kết quả thực hiện công tác giám định BHYT năm 2023, Giám đốc Trung tâm giám định BHYT và Thanh toán đa tuyến (BHXH Việt Nam) Dương Tuấn Đức cho biết:

    • Số liệu giảm trừ chi phí KCB BHYT bất hợp lý theo chuyên đề toàn quốc năm 2023 là 87 tỷ, có những địa phương, có tới 100% các chuyên đề giám định đều có chi phí KCB không hợp lý bị từ chối, theo đó, tỷ lệ giảm trừ theo chuyên đề bình quân chung toàn quốc lên tới 37,2% chi phí trong số thông báo thực hiện. Trong khi đó, việc thực hiện giám định theo các phương pháp giám định truyền thống, số từ chối thanh toán chỉ đạt khoảng 1%. Điều này đã khẳng định hiệu quả của thực hiện giám định chuyên đề được Hệ thống “chỉ điểm” các sai sót, và tập trung vào các chi phí bất thường.
    • Về phía BHXH các dịa phương, cần thực hiện đúng, đủ quy trình giám định BHYT; bố trí nhân lực hợp lý, phân công, phân nhiệm rõ ràng; tập trung giám định chuẩn xác các danh mục, điều kiện thanh toán; thực hiện nghiêm túc yêu cầu tại công văn số 2144/BHXH-GDĐT; khai thác triệt để các chuyên đề giám định, nhất quán, kiên quyết trong xử lý vấn đề; chủ động xây dựng các chuyên đề; phản ánh đầy đủ kết quả giám định, mã hóa thống nhất lý do chấp nhận, từ chối thanh toán, báo cáo đầy đủ, đúng quy định.
    • Trung tâm giám định BHYT và thanh toán đa tuyến cũng chia sẻ dự thảo quy trình cảnh báo gia tăng chi phí KCB BHYT theo quy định tại NĐ 75, tiếp tục tiếp nhận ý kiến đóng góp, sớm hoàn thiện Quy trình để ban hành.

    3. Thực hiện đồng bộ các giải pháp triển khai chính sách BHYT

    Kết luận hội nghị, Phó Tổng Giám đốc BHXH Việt Nam Nguyễn Đức Hòa nhấn mạnh: các nhiệm vụ năm 2024, đặc biệt là quản lý, kiểm soát chi phí KCB BHYT hiệu quả và hợp lý là rất áp lực với ngành BHXH Việt Nam. Nghị định 75 được ban hành với sự đồng thuận của BHXH Việt Nam, Bộ Tài chính và các cơ quan liên quan mang ý nghĩa lớn, đưa ra các giải pháp quyết liệt tháo gỡ khó khăn cho ngành Y tế. Tuy nhiên, Nghị định cũng yêu cầu trách nhiệm rõ ràng cho các bên. Với BHXH Việt Nam, nhiệm vụ xây dựng và giao dự toán sẽ phải đạt tiêu chí minh bạch, rõ ràng. Quá trình này cũng đặc biệt yêu cầu nâng cao năng lực và trách nhiệm từ BHXH mỗi địa phương… Năm 2024 cũng là năm đầu tiên thực hiện lập, giao dự toán chi KCB BHYT từ cơ sở y tế; và ngành BHXH Việt Nam xây dựng và thông báo số ước chi cho các cơ sở KCB. “Đây là nội dung mới, chưa có tiền lệ, cần có hướng dẫn chặt chẽ, công khai minh bạch…”, Phó Tổng Giám đốc BHXH Việt Nam nhấn mạnh.

    Để nâng cao hiệu quả quản lý, kiểm soát chi phí KCB BHYT, Phó Tổng Giám đốc Nguyễn Đức Hòa yêu cầu:

    • Các đơn vị nghiệp vụ và BHXH các địa phương phải tích cực tham gia vào quá trình xây dựng chính sách liên quan BHYT. Cụ thể như với Luật BHYT, trong quan điểm chung của ngành BHXH Việt Nam là ủng hộ mở rộng quyền lợi tốt nhất cho người tham gia, tuy nhiên trong quá trình xây dựng chính sách cần phải đánh giá rõ ràng tác động mà các chính sách mới có thể mang lại, khả năng đáp ứng nguồn lực lâu dài để có các đề xuất phù hợp…; Yêu cầu Ban Thực hiện chính sách BHYT tích cực tham gia xây dựng các thông tư, văn bản hướng dẫn dự toán chi, quyết toán năm 2023; đôn đốc các tỉnh thanh quyết toán chi phí KCB BHYT năm 2023 đảm bảo đúng tiến độ và quy định. Đồng thời, xây dựng kế hoạch làm việc với các địa phương có chi phí lớn, giải quyết các vướng mắc và đảm bảo quyền lợi cho người bệnh đồng thời với kiểm soát chi hiệu quả.
    • Đề nghị Trung tâm Giám định BHYT và thanh toán đa tuyến đôn đốc các địa phương và cơ sở y tế rà soát, cập nhật chuẩn các danh mục mã hóa; phối hợp trung tâm CNTT hoàn thiện các tính năng của phần mềm trong Hệ thống thông tin giám định BHYT, xác định chi phí bình quân, cảnh báo chi phí bất thường theo Nghị định 75; tiếp tục nâng cao chất lượng, hiệu quả các chuyên đề giám định.
    • Công tác giám định chi phí KCB BHYT thời gian tới sẽ nỗ lực để hạn chế tối đa các vi phạm, trục lợi quỹ BHYT. Đối với các địa phương có số chi KCB BHYT vượt dự toán năm 2023, giám đốc BHXH các địa phương cần trách nhiệm hơn trong đánh giá, rà soát để khắc phục các hạn chế, tồn tại. Đồng thời BHXH các địa phương cần thường xuyên trao đổi, báo cáo UBND tỉnh tình hình KCB BHYT và các chi phí tăng cao bất hợp lý, từ đó đề xuất chỉ đạo thực hiện các giải pháp tháo gỡ…
    • Đặc biệt tăng cường công tác tuyên truyền về tuân thủ pháp luật, kịp thời chấn chỉnh các vi phạm trong lĩnh vực BHYT; tăng cường sức mạnh của người dân trong kiểm soát tốt chi phí KCB BHYT.

    VII. BHXH Việt Nam triển khai hiệu quả công tác cải cách hành chính

    Trong quý I năm 2024, ngành BHXH Việt Nam đã triển khai đồng bộ, thống nhất công tác cải cách hành chính (CCHC) ở các lĩnh vực: Tổ chức hành chính, tổ chức bộ máy, chế độ công vụ, tài chính công và xây dựng, phát triển Chính phủ số.

    1. Về cải cách TTHC

    Về công khai, niêm yết tổ chức hành chính (TTHC):

    • BHXH Việt Nam đã công khai 25/25 TTHC thuộc thẩm quyền giải quyết trên Cổng Dịch vụ công quốc gia và Cổng TTĐT BHXH Việt Nam.
    • Tình hình tiếp nhận hồ sơ và trả kết quả TTHC (từ ngày 15/12/2023 đến ngày 14/03/2024): Tổng số hồ sơ yêu cầu giải quyết trong kỳ: 4.681.756 hồ sơ (gồm 4.408.709 hồ sơ mới tiếp nhận và 273.047 hồ sơ từ kỳ trước chuyển qua).
    • Số hồ sơ đã giải quyết: 4.437.919 hồ sơ, đạt 94,8% so với tổng số hồ sơ phải giải quyết. Trong đó, số hồ sơ quá hạn: 267.629 hồ sơ, chiếm 5,7% so với tổng số hồ sơ tiếp nhận phải giải quyết. Số hồ sơ đang giải quyết 243.837 hồ sơ, chiếm 5,2 % so với tổng số hồ sơ phải giải quyết trong kỳ.

    Tình hình tiếp nhận, phân loại, giải quyết phản ánh kiến nghị: Tổng số phản ánh, kiến nghị (PAKN) là 517, gửi trên Hệ thống tiếp nhận PAKN. Trong đó, số PAKN tiếp nhận để xử lý 232; số PAKN trả lại 285. Đã hoàn thành việc xử lý và thực hiện công khai 204; đang xử lý (trong thời hạn giải quyết): 28; đang xử lý (quá thời hạn giải quyết) 0.

    2. Về cải cách tổ chức bộ máy

    BHXH Việt Nam tiếp tục rà soát, sửa đổi, bổ sung chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của các Vụ, Ban và đơn vị sự nghiệp trực thuộc theo hệ thống ngành dọc, tập trung, thống nhất từ Trung ương đến địa phương; cơ cấu, tổ chức các đơn vị trực thuộc tiếp tục được sắp xếp, kiện toàn theo hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả, phù hợp với chức năng, nhiệm vụ, tính chất hoạt động, yêu cầu, phạm vi và đối tượng quản lý, không chồng chéo, trùng lặp về chức năng, nhiệm vụ giữa các phòng, các đơn vị. Trong Quý I/2024, BHXH Việt Nam đã ban hành 8 văn bản chỉ đạo, hướng dẫn về lĩnh vực tổ chức bộ máy.

    Từ ngày 01/01/2024, toàn Ngành giảm 58 đầu mối cấp phòng trực thuộc BHXH cấp tỉnh do kiện toàn, cơ cấu lại: Phòng Quản lý hồ sơ và Văn phòng thuộc 02 BHXH thành phố (BHXH TP. Hà Nội và BHXH TP. Hồ Chí Minh) (nhóm 1) thành Văn phòng BHXH thành phố; kiện toàn, cơ cấu lại Phòng Công nghệ thông tin và Văn phòng BHXH tỉnh thuộc 56 BHXH tỉnh (nhóm 3) thành Văn phòng BHXH tỉnh.

    3. Về cải cách công vụ

    Thực hiện kế hoạch tinh giản biên chế, trong quý 1/2024, toàn Ngành đã tinh giản 01 trường hợp nghỉ hưu trước tuổi theo Nghị định số 29/2023/NĐ-CP; ban hành Quyết định số 1996/QĐ-BHXH ngày 28/12/2023 phê duyệt Kế hoạch tinh giản biên chế giai đoạn 2024 – 2026 đối với BHXH các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.

    Đã cử 44 công chức, viên chức tham gia các khoá bồi dưỡng nghiệp vụ (29 công chức, viên chức tham gia khóa bồi dưỡng nghiệp vụ thanh tra viên chính; 07 viên chức tham gia lớp bồi dưỡng kỹ năng xử phạt vi phạm hành chính; 06 công chức, viên chức tham gia lớp bồi dưỡng kiến thức pháp luật về xử lý vi phạm hành chính và kỹ năng xử lý vi phạm hành chính; 02 viên chức tham gia lớp bồi dưỡng kỹ năng, nghiệp vụ về công tác pháp chế và tổ chức 02 Hội nghị tập huấn xây dựng Đề án VTVL đối với các đơn vị trực thuộc BHXH Việt Nam ở Trung ương và 63 BHXH tỉnh, thành phố).

    4. Về cải cách tài chính công

    BHXH Việt Nam đã bố trí đủ kinh phí cho BHXH các tỉnh, thành phố để thực hiện chi trả lương hưu, trợ cấp BHXH gộp 02 tháng (tháng 1 và tháng 2 năm 2024) cho hơn 3,3 triệu người hưởng với tổng số tiền chi BHXH, BHTN ước khoảng 78.053 tỷ đồng.

    BHXH Việt Nam đã xây dựng Kế hoạch về sắp xếp lại, xử lý nhà đất ngành BHXH Việt Nam giai đoạn 2023-2025; trong quý I/2024, đã kiểm tra hiện trạng nhà đất trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá, Hải Dương, Bà Rịa – Vũng Tàu: ghi nhận thực trạng quản lý, sử dụng nhà đất tại các đơn vị và đề nghị phối hợp với các cơ quan chức năng sớm hoàn thiện hồ sơ pháp lý về đất.

    5. Xây dựng và phát triển Chính phủ điện tử, Chính phủ số

    Triển khai Nghị định số 43/2021/NĐ-CP ngày 31/03/2021 của Chính phủ quy định CSDL quốc gia về bảo hiểm; Kết nối, chia sẻ dữ liệu giữa BHXH Việt Nam và các Bộ, Ngành, địa phương.

    Phối hợp với Bộ Công an kết nối xác thực và chia sẻ thông tin liên quan đến BHXH, BHYT, bảo hiểm thất nghiệp (BHTN) với CSDL quốc gia về dân cư. Đến nay, Hệ thống của BHXH Việt Nam đã xác thực hơn 96 triệu thông tin nhân khẩu có trong CSDL do BHXH Việt Nam quản lý, trong đó có khoảng 87,75 triệu người đang tham gia, thụ hưởng BHXH, BHYT, BHTN, chiếm 97,3% tổng số người không tham gia (không bao gồm lực lượng vũ trang, thân nhân quân đội) với CSDL quốc gia về dân cư; phối hợp tích hợp thông tin sổ BHXH trên ứng dụng VneID, đến nay đã có hơn 15,4 triệu lượt truy vấn thông tin sổ BHXH thành công để tích hợp lên ứng dụng VNeID.

    Phối hợp với Văn phòng Chính phủ: kết nối, cung cấp thông tin trên Hệ thống thông tin báo cáo quốc gia theo Nghị định số 60/2018/NĐ-CP ngày 20/4/2018 và Quyết định số 293/QĐ-TTg ngày 24/2/2020 của Thủ tướng Chính phủ; Hệ thống của BHXH Việt Nam đã kết nối, đồng bộ thông tin, dữ liệu đáp ứng yêu cầu tại Quyết định số 766/QĐ-TTg ngày 23/6/2022 của Thủ tướng Chính phủ.

    Phối hợp với Bộ Tư pháp, Bộ Thông tin và Truyền thông triển khai thực hiện việc kết nối, chia sẻ dữ liệu với các Bộ, ngành và Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố. Thực hiện việc tiếp nhận, liên thông dữ liệu đăng ký khai sinh từ Bộ Tư pháp để thực hiện cấp thẻ BHYT cho trẻ em dưới 6 tuổi trên toàn quốc; đã phối hợp với Bộ Tư pháp cung cấp 02 API tra cứu giấy chứng sinh, giấy báo tử và đã hoàn thành việc xây dựng API tiếp nhận dữ liệu khai tử từ hệ thống của Bộ Tư pháp sang hệ thống của Việt Nam.

    6. Triển khai tích hợp, cung cấp dịch vụ công trực tuyến

    Trong quý I/2024, toàn Ngành đã tiếp nhận và xử lý hơn 4,3 triệu hồ sơ giao dịch điện tử (tương đương 29,4 triệu hồ sơ gắn với từng người lao động, chiếm 87,2% tổng số hồ sơ cả trực tiếp và trực tuyến được tiếp nhận và xử lý).

    Thực hiện Đề án 06, BHXH Việt Nam đã triển khai các dịch vụ công (DVC) trực tuyến sau:

    • Tích hợp tính giảm trừ mức đóng trong gia hạn thẻ BHYT theo hộ gia đình: BHXH Việt Nam đã tái cấu trúc quy trình, ban hành DVC, tích hợp, cung cấp DVC Gia hạn thẻ BHYT theo hộ gia đình có giảm trừ mức đóng trên Cổng DVC BHXH Việt Nam và Cổng DVC quốc gia từ tháng 7/2022. Hiện nay, DVC này đã được tích hợp chung vào DVC “Đăng ký đóng, cấp thẻ BHYT đối với người chỉ tham gia BHYT”.
    • Liên thông “đăng ký khai sinh – đăng ký thường trú – cấp thẻ BHYT cho trẻ dưới 6 tuổi”; “đăng ký khai tử – Xóa đăng ký thường trú – Trợ cấp mai táng phí”: Tính đến nay, BHXH các tỉnh, thành phố đã tiếp nhận: 718.407 hồ sơ đề nghị cấp thẻ BHYT cho trẻ em dưới 6 tuổi trong đó đã xử lý 714.072 hồ sơ (99,4%), đang xử lý 4.335 hồ sơ (chiếm 0,6%); 9.116 hồ sơ đề nghị giải quyết hưởng mai táng phí, trong đó đã xử lý 8.855 hồ sơ (chiếm 97,1%), đang xử lý 261 hồ sơ (2,9%). BHXH Việt Nam đã và đang duy trì Tổ hỗ trợ BHXH tỉnh, thành phố triển khai 2 nhóm TTHC liên thông, hạn chế tối đa tình trạng xử lý hồ sơ chậm, muộn.
    • Giải quyết hưởng trợ cấp thất nghiệp (Bộ LĐ-TB&XH chủ trì, phối hợp với Văn phòng Chính phủ, BHXH Việt Nam thực hiện): Đã tích hợp dịch vụ công Giải quyết hưởng trợ cấp thất nghiệp trên Cổng DVC quốc gia từ 12/4/2022. Tính đến nay, Hệ thống của BHXH Việt Nam đã tiếp nhận từ Cổng DVC quốc gia để xác nhận và trả quá trình đóng BHTN cho 379.617 trường hợp phục vụ giải quyết hưởng trợ cấp thất nghiệp cho người lao động.
    • Triển khai DVC theo Quyết định số 422/QĐ-TTg ngày 04/4/2022 của Thủ tướng Chính phủ: DVC “Đăng ký tham gia BHXH tự nguyện” (bao gồm: đăng ký tham gia BHXH tự nguyện lần đầu; chuyển từ tham gia BHXH bắt buộc sang tham gia BHXH tự nguyện; tiếp tục tham gia BHXH tự nguyện theo phương thức và mức đóng đã đăng ký; đăng ký lại phương thức đóng và mức thu nhập tháng làm căn cứ đóng BHXH tự nguyện): Tính đến nay, Hệ thống của BHXH Việt Nam đã tiếp nhận và xử lý 7.434 giao dịch đăng ký, đóng BHXH tự nguyện.
    • DVC “Đăng ký đóng, cấp thẻ BHYT đối với người chỉ tham gia BHYT” (tích hợp DVC Gia hạn thẻ BHYT theo hộ gia đình vào DVC này): Tính đến nay, toàn Ngành đã tiếp nhận và xử lý 46.814 trường hợp đăng ký đóng, cấp thẻ BHYT, gia hạn thẻ BHYT thông qua DVC này.
    • DVC “Giải quyết hưởng BHXH 1 lần” (thuộc nhóm áp dụng thí điểm xác thực chữ ký số được tích hợp trong ứng dụng trên thiết bị di động để phục vụ cung cấp DVC trực tuyến): Đến nay mới có 05 hồ sơ phát sinh nhưng đều không hợp lệ do theo yêu cầu phải có chữ ký số được tích hợp trên thiết bị di động (chữ ký số từ xa) nhưng người có yêu cầu giải quyết đều chưa có chữ ký số từ xa.

    7. Triển khai ứng dụng VssID – BHXH số

    Tính đến nay, toàn Ngành đã phê duyệt gần 35 triệu tài khoản giao dịch điện tử cá nhân (dùng để đăng nhập và sử dụng Cổng DVC BHXH Việt Nam và ứng dụng VssID); đã phối hợp với Cục Cảnh sát Quản lý hành chính về trật tự xã hội (Cục C06) thực hiện điều chỉnh, nâng cấp ứng dụng VssID đáp ứng yêu cầu kết nối, tích hợp tài khoản định danh điện tử (tài khoản VNeID) với ứng dụng VssID (đăng nhập ứng dụng VssID bằng tài khoản VNeID); đã triển khai chính thức từ 19/10/2023, đến nay đã có hơn 7,5 triệu lượt sử dụng tài khoản VNeID để đăng nhập VssID.

    Nhìn chung, những kết quả đạt được trong công tác cải cách hành chính đã góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, môi trường kinh doanh thuận lợi để phát huy nội lực, thu hút nguồn lực bên ngoài, góp phần thực hiện thắng lợi và hoàn thành các mục tiêu, chỉ tiêu kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội.

    Trong thời gian qua, Ngành BHXH Việt Nam luôn xác định và quyết tâm thực hiện CCHC phải đồng bộ ở tất cả các lĩnh vực, các khâu, triển khai thống nhất từ BHXH Việt Nam đến BHXH các tỉnh, thành phố. BHXH Việt Nam đã kịp thời ban hành Kế hoạch CCHC năm 2024 đồng thời chỉ đạo BHXH 63 tỉnh, thành phố xây dựng và tổ chức triển khai Kế hoạch.

    Nội dung Kế hoạch đảm bảo tổ chức triển khai thực hiện các nhiệm vụ CCHC được giao tại các Nghị quyết số: 01/NQ-CP, 02/NQ-CP ngày 05/01/2024 của Chính phủ; đồng thời bám sát chỉ đạo của Bộ Nội vụ và Ban Chỉ đạo cải cách hành chính của Chính phủ.

    VIII. Giải quyết dứt điểm vướng mắc về đấu thầu thuốc, vật tư, thiết bị y tế

    Chiều 21/02/2024, Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà đã chủ trì cuộc họp với lãnh đạo Bộ Y tế, một số bộ, ngành, sở y tế, bệnh viện nghe báo cáo, cho ý kiến về dự thảo Nghị định hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Đấu thầu năm 2023 về lựa chọn nhà thầu (Nghị định).

    Tại cuộc họp, Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Trần Quốc Phương cho biết:

    • Trong quá trình xây dựng Nghị định, đối với các nội dung liên quan đến lĩnh vực đấu thầu thuốc, trang thiết bị, vật tư y tế, Bộ đã xin ý kiến thành viên Chính phủ về: Quy định lập giá gói thầu; thủ tục phê duyệt kế hoạch lựa chọn nhà thầu trong quy trình chỉ định thầu rút gọn; thanh toán chi phí mua thuốc, hoá chất, vật tư xét nghiệm, thiết bị y tế cho cơ sở khám bệnh, chữa bệnh tư nhân.
    • Phó Thủ tướng đề nghị đại điện các bệnh viện, sở y tế đóng góp thẳng thắn vào các điều, điểm, khoản để Nghị định khi ban hành phải tạo sự thống nhất về nhận thức, giải quyết được ngay những vướng mắc thực tiễn. “Công tác lựa chọn nhà thầu trong lĩnh vực y tế được quản lý chặt chẽ, bảo đảm an toàn, phòng tránh tham nhũng, lãng phí, kém hiệu quả, nhưng phải phân cấp mạnh mẽ”, Phó Thủ tướng nhấn mạnh.

    Thứ trưởng Bộ Y tế Lê Đức Luận cho biết, đặc thù đối với hoạt động đấu thầu mua sắm thuốc, vật tư, trang thiết bị y tế phải đáp ứng cả yêu cầu chuyên môn, kỹ thuật, nhu cầu điều trị lẫn năng lực tài chính.

    Do vậy, Bộ Y tế đề nghị trong trường hợp có từ 2 báo giá trở lên thì có thể lựa chọn mức giá cao nhất làm cơ sở lập dự toán xây dựng giá gói thầu.

    Kết luận cuộc họp, Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà nhấn mạnh, vấn đề đấu thầu thuốc, thiết bị y tế hết sức quan trọng, cần giải quyết bằng cơ chế, chính sách pháp luật.

    Qua các ý kiến tại cuộc họp, Phó Thủ tướng giao Bộ KH&ĐT nghiên cứu tiếp thu tối đa, khẩn trương hoàn thiện dự thảo Nghị định. Bộ Y tế phối hợp với Bộ KH&ĐT để xây dựng tiêu chí xác định tính chính thống, hợp pháp của các nguồn thông tin báo giá làm căn cứ lập giá gói thầu. “Quan trọng nhất là Hội đồng của bệnh viện phải xác định cấu hình, yêu cầu kỹ thuật, chất lượng, hiệu quả kinh tế của thuốc, vật tư, trang thiết bị y tế, làm cơ sở lựa chọn mức giá gói thầu”, Phó Thủ tướng lưu ý.

    Để tháo gỡ khó khăn trong thực hiện tư vấn, thẩm định đấu thầu, Phó Thủ tướng đề nghị:

    • Quy định rõ ràng nhằm huy động, khuyến khích sự tham gia của các đơn vị, tổ chức tư vấn, thẩm định được thành lập hợp pháp; trường hợp không có đơn vị, tổ chức tư vấn, thẩm định tham gia thì chủ đầu tư sẽ thành lập tổ tư vấn, thẩm định trong đấu thầu.
    • Đối với việc phân cấp đấu thầu thuốc, đấu thầu tập trung là biện pháp hết sức hiệu quả, cần thiết, minh bạch, khách quan để người dân được tiếp cận thuốc mới, tốt, giá rẻ. Do vậy, những loại thuốc sử dụng phổ biến, khối lượng lớn phải đưa vào danh sách đấu thầu tập trung (cấp quốc gia, địa phương), lựa chọn các nhà sản xuất, doanh nghiệp đủ năng lực, còn những loại thuốc hiếm, đặc trị, chuyên khoa thì phân cấp tối đa cho bệnh viện.
    • Lựa chọn nhà thầu trong trường hợp đặc biệt; áp giá thầu đối với các loại thuốc, vật tư, trang thiết bị y tế cho các bệnh viện tư nhân thực hiện khám, chữa bệnh BHYT…
    • Về điều khoản thực hiện chuyển tiếp không để khoảng trống pháp luật khi thực hiện hoạt động đấu thầu nói chung, trong đó có lĩnh vực y tế. Đơn cử, những gói thầu thực hiện theo các văn bản, quy định pháp luật trước đây phải rà soát, báo cáo cấp thẩm quyền nếu trái với Luật Đấu thầu năm 2023 hoặc Nghị định hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Đấu thầu năm 2023 về lựa chọn nhà thầu; cho phép kéo dài thời gian thực hiện các gói thầu triển khai từ thời điểm Luật Đấu thầu năm 2023 có hiệu lực để bổ sung, hoàn thiện hồ sơ.

    IX. Nâng dần mức chuẩn trợ cấp xã hội cho người cao tuổi

    Hiện nay, cả nước có khoảng 16,1 triệu người cao tuổi. Tuy nhiên, số người có lương hưu, trợ cấp bảo hiểm, trợ cấp xã hội chiếm chưa đến một nửa. Các cơ quan chức năng đang đề xuất nâng dần mức chuẩn trợ cấp xã hội cho nhóm này cao hơn mức 360.000 hiện hành…

    • Bộ LĐ-TB&XH đã đề xuất 2 phương án tăng chuẩn trợ cấp xã hội, trong đó có nhóm người cao tuổi.
      • Phương án 1 là nâng mức chuẩn trợ cấp xã hội hằng tháng từ 360.000 đồng/người lên 500.000 đồng, tương đương 33% chuẩn nghèo khu vực nông thôn giai đoạn 2021-2025.
      • Phương án 2 là nâng mức chuẩn trợ cấp xã hội hằng tháng từ 360.000 đồng/người lên 750.000 đồng, tương đương 50% chuẩn nghèo khu vực nông thôn giai đoạn 2021-2025. Việc nâng mức chuẩn trợ cấp xã hội sẽ phần nào cải thiện đời sống cho người cao tuổi.
    • Trong năm nay, Bộ LĐ-TB&XH cho biết cũng sẽ tổ chức nghiên cứu, đánh giá tình hình thực hiện Luật
    • Người cao tuổi; trình ban hành Nghị định sửa đổi, bổ sung Nghị định số 20/2021/NĐ-CP quy định chính sách trợ giúp xã hội đối với đối tượng bảo trợ xã hội, theo hướng nâng mức chuẩn trợ giúp xã hội, mở rộng đối tượng trợ giúp xã hội phù hợp với tình hình thực tiễn.
    • Cùng với đó, sẽ trình ban hành Chiến lược quốc gia về người cao tuổi Việt Nam đến năm 2035, tầm nhìn đến năm 2045.
    • Bộ cũng sẽ phối hợp với các cơ quan liên quan triển khai thực hiện mục tiêu 100% người cao tuổi được cấp thẻ bảo hiểm y tế; nhân rộng mô hình câu lạc bộ liên thế hệ tự giúp nhau; tập huấn nâng cao năng lực cán bộ làm công tác người cao tuổi…

    X. BHXH Việt Nam chuẩn bị kế hoạch tổng kết 15 năm thực hiện Chỉ thị số 38-CT/TW

    Sáng ngày 14/03/2024, Phó Tổng Giám đốc BHXH Việt Nam Nguyễn Đức Hòa chủ trì cuộc họp với các đơn vị nghiệp vụ của BHXH Việt Nam, chuẩn bị tổng kết 15 năm thực hiện Chỉ thị số 38-CT/TW ngày 07/09/2009 của Ban Bí thư về “Đẩy mạnh công tác BHYT trong tình hình mới”.

    • Sau 15 năm Chỉ thị được triển khai thực hiện, Ban Tuyên giáo Trung ương đã xây dựng kế hoạch tổng kết 15 năm thực hiện Chỉ thị số 38, nhằm đánh giá toàn diện, sâu sắc công tác lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý và tổ chức triển khai thực hiện Chỉ thị số 38, gắn với việc thực hiện những nghị quyết, chỉ thị, kết luận của Đảng về BHYT, chính sách xã hội, bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe Nhân dân của các cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, địa phương, đơn vị. Đồng thời đề ra nhiệm vụ, giải pháp thiết thực để tiếp tục đẩy mạnh công tác BHYT trong thời gian tới, góp phần đảm bảo an sinh xã hội và công bằng trong chăm sóc sức khỏe nhân dân.
    • Thông qua hoạt động tổng kết này, Ban Tuyên giáo Trung ương kỳ vọng sẽ tiếp tục góp phần nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, địa phương, đơn vị, cán bộ, đảng viên, nhân viên ngành y tế và các tầng lớp Nhân dân về tầm quan trọng của chính sách BHYT trong hệ thống an sinh xã hội; tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức và hành động về BHYT, chính sách xã hội và đảm bảo an sinh xã hội. Đặc biệt, trên cơ sở đánh giá kết quả tổng kết 15 năm thực hiện Chỉ thị số 38, tiếp tục tham mưu, đề xuất Ban Bí thư xem xét, ban hành văn bản mới về công tác BHYT trong thời gian tới.

    Nhấn mạnh ý nghĩa quan trọng của Chỉ thị này với việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của ngành BHXH nói chung, chính sách BHYT nói riêng, Phó Tổng Giám đốc BHXH Việt Nam Nguyễn Đức Hòa yêu cầu các đơn vị nghiệp vụ theo chức năng của mình sẽ tham gia đánh giá, tổng kết việc thực hiện Chỉ thị 38, đảm bảo thông tin chính xác, toàn diện. Cụ thể, đánh giá toàn diện những kết quả đạt được trên tất cả các nội dung được nêu trong Chỉ thị số 38. Chỉ rõ những hạn chế, khuyết điểm trong quá trình triển khai thực hiện, nguyên nhân khách quan, nguyên nhân chủ quan. Chia sẻ các bài học kinh nghiệm và những tập thể, cá nhân điển hình trong thực hiện Chỉ thị số 38; những nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm thời gian tới…

    Theo Kế hoạch, đến hết tháng 4/2024, các Tỉnh ủy, thành ủy, Ban cán sự đảng, đảng đoàn, đảng ủy trực thuộc Trung ương sẽ hoàn thành việc tổng kết, gửi báo cáo về Ban Tuyên giáo Trung ương. Tiếp theo thực hiện các hoạt động kiểm tra, khảo sát kết quả triển khai thực hiện Chỉ thị; tổ chức hội nghị, hội thảo, tọa đàm….Ban Tuyên giáo Trung ương sẽ chủ trì, phối hợp với Ban cán sự đảng Bộ Y tế, BHXH Việt Nam và các đơn vị liên quan xây dựng Đề án tổng kết 15 năm thực hiện Chỉ thị số 38, dự kiến sẽ trình Ban Bí thư trong tháng 10-11/2024.

    XI. Đảm bảo an toàn thông tin mạng tạo nền tảng chuyển đổi số của ngành BHXH Việt Nam

    Ngày 19/03/2024, BHXH Việt Nam tổ chức Hội nghị trực tuyến triển khai công tác bảo đảm an toàn thông tin mạng năm 2024.

    1. Kịp thời ngăn chặn nguy cơ tấn công, chống lại các mối đe dọa từ bên ngoài

    Phát biểu tại Hội nghị, Tổng Giám đốc Nguyễn Thế Mạnh cho biết:

    Những năm qua, BHXH Việt Nam đã đạt được những bước tiến đáng kể trong công cuộc chuyển đổi số, ứng dụng công nghệ số để nâng cao hiệu quả hoạt động và phát triển hệ thống:

    • Toàn bộ các hệ thống phần mềm quản lý, phần mềm nghiệp vụ và các giao dịch với tổ chức, cá nhân đều được thực hiện trên môi trường mạng.
    • Cơ sở dữ liệu quốc gia về bảo hiểm từng bước hoàn thiện và được đưa vào khai thác, chia sẻ với các bộ, ngành, địa phương, cũng như việc triển khai các nhiệm vụ được giao trong Đề án 06 của Chính phủ.

    Tuy nhiên, việc đảm bảo an toàn cho toàn bộ hệ thống thông tin của ngành BHXH Việt Nam là một thách thức rất lớn trước những nguy cơ tấn công mạng, với kỹ thuật ngày càng tiên tiến, tinh vi của tội phạm công nghệ cao như hiện nay.

    Nhằm nâng cao năng lực, kiến thức và kỹ năng cho công chức, viên chức và người lao động, BHXH Việt Nam đã phối hợp tổ chức các khóa đào tạo chuyên sâu cho cán bộ chuyên trách an toàn thông tin; tổ chức các hoạt động diễn tập ứng cứu khẩn cấp sự cố an toàn thông tin; bồi dưỡng, tập huấn cho toàn bộ công chức, viên chức và người lao động về đảm bảo an toàn thông tin, nâng cao cảnh giác trước những hành vi lừa đảo, phòng ngừa các nguy cơ tấn công qua mạng.

    2. Tăng cường công tác bảo đảm an toàn thông tin mạng

    Tại Hội nghị, Phó Tổng Giám đốc BHXH Việt Nam Chu Mạnh Sinh đã quán triệt Nghị quyết số 398-NQ/BCSĐ 15/03/2024 của Ban Cán sự đảng BHXH Việt Nam về tăng cường bảo đảm an toàn thông tin mạng ngành BHXH Việt Nam.

    Nghị quyết nêu rõ:

    • An toàn thông tin mạng là nhiệm vụ quan trọng và đột phá để tạo lập niềm tin số, xây dựng môi trường mạng trung thực, văn minh, lành mạnh và phòng, chống vi phạm pháp luật trên không gian mạng, bảo vệ sự phát triển của ngành BHXH Việt Nam nhằm thực hiện thành công chuyển đổi số quốc gia.
      • Các đơn vị thuộc và trực thuộc BHXH Việt Nam thường xuyên giám sát và ngăn chặn kịp thời các hành vi vi phạm chính sách an toàn thông tin mạng.
      • Để phát huy vai trò tích cực, chủ động, tập trung trí tuệ và sức mạnh tổng hợp của toàn ngành BHXH trong đảm bảo an toàn thông tin mạng, Nghị quyết đặt mục tiêu, tiếp tục tổ chức nghiên cứu, quán triệt, thực hiện nghiêm túc các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước về bảo đảm an toàn, an ninh mạng, bảo vệ bí mật nhà nước trên không gian mạng; Chú trọng xây dựng đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao về an ninh mạng.
      • Bên cạnh mục tiêu trên, Nghị quyết cũng đặt mục tiêu: Rà soát, xây dựng và ban hành các văn bản chỉ đạo, văn bản quản lý và các quy định về an ninh mạng để triển khai thực hiện thống nhất trong toàn ngành BHXH Việt Nam; Xây dựng ngành BHXH Việt Nam hiện đại, chuyên nghiệp, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu xây dựng Chính phủ điện tử, hướng tới Chính phủ số.
    • Để hiện thực hóa các mục tiêu trên, Tổng Giám đốc BHXH Việt Nam đề nghị các đơn vị thuộc và trực thuộc tăng cường bảo đảm an toàn thông tin mạng.
      • Giao nhiệm vụ cụ thể cho Trung tâm công nghệ thông tin, Lãnh đạo BHXH Việt Nam đề nghị, đơn vị này cụ thể hóa các nhiệm vụ, giải pháp tại Nghị quyết số 398-NQ/BCSĐ thành kế hoạch chi tiết để tham mưu, đề xuất tổ chức thực hiện.
      • Đồng thời, kiện toàn, đẩy mạnh hoạt động của Đội ứng cứu sự cố an toàn thông tin mạng của BHXH các tỉnh, thành phố, để đội ngũ cán bộ này làm lực lượng nòng cốt trong triển khai thực hiện nhiệm vụ bảo đảm an toàn thông tin mạng tại các đơn vị.
      • Tăng cường đôn đốc, kiểm tra, hướng dẫn các đơn vị trực thuộc BHXH Việt Nam, BHXH các tỉnh, thành phố triển khai các giải pháp kỹ thuật an toàn thông tin mạng; thường xuyên giám sát và ngăn chặn kịp thời các hành vi vi phạm chính sách an toàn thông tin mạng; khoanh vùng, cô lập, khống chế các sự cố để giảm thiểu thiệt hại về tài sản thông tin, dữ liệu.
      • Trung tâm Truyền thông và BHXH các tỉnh, thành phố tăng cường tuyên truyền, phổ biến ý nghĩa, vai trò của bảo đảm an toàn thông tin mạng. Thủ trưởng các đơn vị trực thuộc, Giám đốc BHXH các tỉnh, thành phố tổ chức học tập, quán triệt triển khai các nội dung Nghị quyết.

    Bạn đang cần tư vấn thiết kế website bán hàng chuyên nghiệp , tham khảo dịch vụ của NKS nhé

    NKS - Công ty TNHH Giải pháp Công nghệ Tri Thức Mới

    20 năm tư vấn và cung cấp giải pháp xây dựng thương hiệu toàn diện trên Internet

    222 Lê Văn Sỹ, Phường 14, Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam

    Email: system@nks.vn

    Website: https://nks.com.vn

    Hotline: 0932030958

    Mục lục
    Menu