Bản tin BHXH tháng 1/2024

I. Hướng dẫn mới về thủ tục khám, chữa bệnh BHYT

Ngày 01/12/2023, Bộ Y tế đã ban hành Quyết định 4384/QĐ-BYT về việc công bố 2 thủ tục hành chính được sửa đổi, bổ sung trong lĩnh vực Tài chính y tế.

Theo đó, Bộ Y tế hướng dẫn thực hiện thủ tục khám bệnh, chữa bệnh bảo hiểm y tế (BHYT) như sau:

Thành phần hồ sơ:

  • Thẻ BHYT và giấy tờ chứng minh về nhân thân của người đó; đối với trẻ em dưới 06 tuổi chỉ phải xuất trình thẻ BHYT.
  • Bản sao giấy chứng sinh hoặc bản sao giấy khai sinh đối với trẻ em dưới 06 tuổi.
  • Tờ khai tham gia, điều chỉnh thông tin BHXH, BHYT theo Mẫu TK1-TS.
  • Giấy hẹn khám lại.
  • Giấy chuyển tuyến khám, chữa bệnh BHYT.
  • Hồ sơ chuyển tuyến của cơ sở khám, chữa bệnh BHYT.

Trình tự thực hiện:

  • Người tham gia BHYT khi đến cơ sở khám bệnh, chữa bệnh phải xuất trình thẻ BHYT có ảnh hoặc căn cước công dân (CCCD).
    • Trường hợp xuất trình thẻ BHYT chưa có ảnh thì phải xuất trình thêm một trong các giấy tờ tùy thân có ảnh do cơ quan, tổ chức có thẩm quyền cấp… hoặc giấy tờ được định danh điện tử mức độ 2.
    • Đối với trẻ em dưới 06 tuổi chỉ phải xuất trình thẻ BHYT.
  • Trường hợp cấp cứu, người tham gia BHYT được khám, chữa bệnh tại bất kỳ cơ sở khám, chữa bệnh nào và phải xuất trình thẻ BHYT cùng với giấy tờ tùy thân trước khi ra viện.
  • Trường hợp chuyển tuyến điều trị, người tham gia BHYT phải có phải có Giấy chuyển tuyến khám bệnh, chữa bệnh BHYT, hồ sơ chuyển viện của cơ sở khám, chữa bệnh.
  • Trường hợp khám lại theo yêu cầu điều trị, người tham gia BHYT phải có Giấy hẹn khám lại của cơ sở khám, chữa bệnh.
  • Trường hợp vượt quá khả năng chuyên môn kỹ thuật thì cơ sở khám, chữa bệnh BHYT có trách nhiệm chuyển người bệnh kịp thời đến cơ sở khác theo quy định về chuyển tuyến chuyên môn kỹ thuật.

Thời hạn giải quyết: Cơ sở khám bệnh, chữa bệnh BHYT giải quyết ngay sau khi xuất trình thẻ BHYT và thành phần hồ sơ.

Quyết định 4384/QĐ-BYT có hiệu lực kể từ ngày 19/10/2023.

II. Chốt phương án lương tối thiểu vùng năm 2024 trình Chính phủ

Sáng 20/12/2023, Hội đồng Tiền lương Quốc gia đã nhóm họp phiên thứ 2 thảo luận và thông qua phương án khuyến nghị Chính phủ về tăng lương tối thiểu vùng áp dụng cho năm 2024.

Kết thúc phiên họp, với đa số phiếu đồng thuận, Hội đồng Tiền lương Quốc gia đã thống nhất mức tăng lương tối thiểu vùng năm 2024 là 6% để trình Chính phủ. Nếu được Chính phủ thông qua, lương tối thiểu vùng sẽ tăng từ ngày 01/07/2024 (cùng thời điểm cải cách tiền lương khu vực Nhà nước). Theo đó:

Mức lương tối thiểu theo tháng có thể được áp dụng từ ngày 01/07/2024, cụ thể:

  • Vùng 1 tăng từ 4,68 triệu đồng/tháng lên 4,96 triệu đồng/tháng (tăng thêm 280.000 đồng);
  • Vùng 2 tăng từ 4,16 triệu đồng/tháng lên 4,41 triệu đồng/tháng (tăng 250.000 đồng);
  • Vùng 3 tăng từ 3,64 triệu đồng/tháng lên 3,86 triệu đồng/tháng (tăng 220.000 đồng);
  • Vùng 4 tăng từ 3,25 triệu đồng/tháng lên 3,45 triệu đồng/tháng (tăng 200.000 đồng).

Với lương tối thiểu vùng theo giờ, Hội đồng cũng thống nhất phương án tăng thêm 6%. Cụ thể:

  • Vùng 1 tăng từ 22.500 đồng/giờ lên 23.800 đồng/giờ;
  • Vùng 2 tăng từ 20.000 đồng/giờ lên 21.200 đồng/giờ;
  • Vùng 3 tăng từ 17.500 đồng/giờ lên 18.600 đồng/giờ;
  • Vùng 4 tăng từ 15.600 đồng/giờ lên 16.600 đồng/giờ.

Ông Lê Văn Thanh, Thứ trưởng Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội (LĐ-TB&XH), Chủ tịch Hội đồng Tiền lương Quốc gia cho biết:

Lần gần nhất lương tối thiểu vùng được điều chỉnh tăng là từ ngày 01/07/2022, với mức tăng bình quân cũng là 6%. Sau điều chỉnh trước, mức lương tối thiểu Vùng 1 đến nay đang duy trì mức 4,68 triệu đồng/tháng; Vùng 2 mức 4,16 triệu đồng/tháng; Vùng 3 mức 3,64 triệu đồng/tháng; Vùng 4 mức 3,25 triệu đồng/tháng.

Các thành viên hội đồng đã thống nhất phương án tăng lương tối thiểu vùng năm 2024 ở mức 6% để trình lên Chính phủ phê duyệt. Phương án tăng lương được đánh giá dựa trên những khó khăn kinh tế, biến động của thế giới, các rào cản thương mại phức tạp… và cả tình hình đời sống khó khăn của người lao động trong thời gian qua do biến động của giá cả, doanh nghiệp thiếu các đơn hàng…
Trong báo cáo mới nhất, Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) đánh giá từ năm 2015 tới nay, Việt Nam luôn tăng lương tối thiểu ổn định và nhất quán, từ mức 119 USD/tháng lên 168 USD/tháng hiện hành. Tính chung giai đoạn 2015-2022 lương tối thiểu tại Việt Nam tăng tổng 19,8%.

Trong khu vực ASEAN, Việt Nam là số ít giữ được việc tăng lương giúp tăng giá trị thực tế cho người lao động (tăng thêm 0,7%); do nhiều nước mức tăng lương thấp hơn lạm phát, nên giá trị thực tế của tiền lương giảm, đặc biệt giai đoạn từ dịch Covid-19 tới nay.

III. Chi trả gộp lương hưu, trợ cấp BHXH tháng 1 và tháng 2 năm 2024

Ngày 13/12/2023, BHXH Việt Nam ban hành Công văn số 4210/BHXH-TCKT gửi Tổng Công ty Bưu điện Việt Nam và BHXH các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương về việc chi trả lương hưu, trợ cấp BHXH tháng 1, tháng 2 năm 2024.

Để tạo điều kiện cho người hưởng lương hưu và trợ cấp BHXH vui Tết cổ truyền, BHXH Việt Nam cấp kinh phí chi trả lương hưu, trợ cấp BHXH tháng 1 và tháng 2 năm 2024 cho BHXH các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (gọi chung là BHXH tỉnh) để chi trả đến người hưởng vào cùng kỳ chi trả tháng 1/2024, bao gồm cả người hưởng nhận bằng tiền mặt và nhận qua tài khoản cá nhân.

BHXH Việt Nam yêu cầu, BHXH tỉnh chủ trì phối hợp với Bưu điện tỉnh:

Xây dựng phương án chi trả, đảm bảo chi trả đầy đủ, kịp thời lương hưu và trợ cấp BHXH hàng tháng cho người hưởng;

Tăng cường kiểm tra, giám sát quá trình chi trả cho người hưởng, phối hợp, giải quyết, xử lý dứt điểm phát sinh, phản ánh kịp thời vướng mắc trong quá trình tổ chức thực hiện;

Phối hợp với các cơ quan thông tấn, báo chí trung ương, địa phương, cơ quan bưu điện, ngân hàng, trung tâm giới thiệu việc làm,… để tuyên truyền vận động, khuyến khích người hưởng nhận chế độ BHXH, trợ cấp thất nghiệp qua tài khoản cá nhân để người hưởng được nhận chế độ nhanh chóng, thuận tiện nhất.

Tổng Công ty Bưu điện Việt Nam chỉ đạo các đơn vị trực thuộc phối hợp với cơ quan BHXH xây dựng kế hoạch chi trả lương hưu, trợ cấp BHXH hàng tháng của tháng 1, tháng 2 năm 2024 trong kỳ chi trả tháng 1 năm 2024, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho người hưởng trong dịp tết Dương lịch và Tết Nguyên đán; tổ chức chi trả tại nhà cho người hưởng già yếu, cô đơn, ốm đau, bệnh tật không có khả năng đi đến nhận.

IV. Việt Nam – Hàn Quốc ký kết Thỏa thuận hành chính thực hiện Hiệp định về BHXH

Ngày 08/12/2023 tại Hàn Quốc, Thứ trưởng Bộ LĐ-TB&XH Nguyễn Bá Hoan cùng Thứ trưởng Bộ Y tế và Phúc lợi Hàn Quốc Kim Hyejin ký kết Thỏa thuận hành chính thực hiện Hiệp định giữa Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ nước Đại Hàn Dân quốc về BHXH.

Trước đó ngày 14/12/2021, tại Seoul Hàn Quốc, thừa ủy quyền của Chính phủ hai nước, Bộ trưởng Bộ LĐ-TB&XH Việt Nam Đào Ngọc Dung và Bộ trưởng Y tế và Phúc lợi Hàn Quốc Kwon Deok Cheol đã ký Hiệp định hợp tác song phương về BHXH giữa Chính phủ hai nước. Đây là Hiệp định song phương đầu tiên của hai nước trong lĩnh vực này, và cũng là Hiệp định song phương đầu tiên về BHXH của Việt Nam với một quốc gia khác.

Với việc Hiệp định và Thoả thuận hành chính sẽ cùng có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2024 sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho lao động hai nước khi di chuyển đến làm việc trên lãnh thổ của mỗi bên, bảo vệ quyền lợi về BHXH cho người lao động của hai nước, bên cạnh việc quy định về tránh đóng song trùng BHXH, người lao động hai nước sẽ được tính cộng gộp thời gian tham gia BHXH ở cả Việt Nam và Hàn Quốc để làm cơ sở tính hưởng chế độ hưu trí.

Thông qua ký kết Thỏa thuận hành chính, Cơ quan Nhà nước có thẩm quyền hai bên đã chính thức giao đầu mối thực hiện Hiệp định cho hai cơ quan là BHXH Việt Nam và Cơ quan Hưu trí Quốc gia Hàn Quốc.

Các nội dung của Thỏa thuận nhằm cụ thể hóa các quy định, nguyên tắc đã được Chính phủ hai nước ký kết trong Hiệp định liên quan tới chế độ hưu trí và tử tuất theo Luật BHXH của Việt Nam và Luật Hưu trí quốc gia của Hàn Quốc; nguyên tắc đối xử bình đẳng giữa người lao động Việt Nam và người lao động Hàn Quốc khi làm việc trên lãnh thổ của nước kia như đối với công dân nước sở tại trong việc xác định các điều kiện đóng, hưởng, chi trả các quyền lợi BHXH.

Hiệp định và Thoả thuận hành chính khi được triển khai sẽ đáp ứng được kỳ vọng và sự mong đợi của đông đảo các doanh nghiệp và người lao động của cả hai quốc gia

V. Không yêu cầu nộp, xuất trình sổ hộ khẩu, sổ tạm trú khi thực hiện thủ tục hành chính của ngành BHXH Việt Nam

BHXH Việt Nam ban hành Công văn số 4144/BHXH-VP gửi BHXH các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương về việc không yêu cầu công dân nộp, xuất trình sổ hộ khẩu, sổ tạm trú khi thực hiện thủ tục hành chính (TTHC) thuộc thẩm quyền giải quyết của ngành BHXH Việt Nam.

Theo đó, thực hiện Nghị định số 104/2022/NĐ-CP ngày 21/12/2022 của Chính phủ về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của các nghị định liên quan đến việc nộp, xuất trình sổ hộ khẩu, sổ tạm trú giấy khi thực hiện TTHC, cung cấp dịch vụ công, BHXH Việt Nam đã thực hiện rà soát các TTHC, dịch vụ công thuộc thẩm quyền giải quyết của Ngành và bãi bỏ thành phần hồ sơ là “sổ hộ khẩu, sổ tạm trú giấy” trong các TTHC lĩnh vực thu BHXH, BHYT, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, cấp sổ BHXH, thẻ BHYT. Hiện nay, các TTHC thuộc thẩm quyền giải quyết của BHXH Việt Nam không còn TTHC nào quy định về việc cung cấp, xuất trình sổ hộ khẩu, sổ tạm trú. Đồng thời, BHXH Việt Nam cũng đã hoàn thành việc kết nối với cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, đảm bảo phục vụ việc tra cứu, đối soát thông tin của công dân và hướng dẫn triển khai, thực hiện.

Nhằm triển khai, thực hiện quy định nêu trên, BHXH Việt Nam chỉ đạo BHXH các tỉnh, thành phố trong quá trình tiếp nhận hồ sơ, giải quyết, trả kết quả TTHC không yêu cầu công dân cung cấp, xuất trình sổ hộ khẩu và lưu ý các nội dung sau:

Một là, chấp hành nghiêm Quy chế tổ chức và hoạt động của Bộ phận Tiếp nhận và Trả kết quả giải quyết TTHC theo cơ chế một cửa, một cửa liên thông trong ngành BHXH Việt Nam; đảm bảo các thành phần hồ sơ theo đúng quy định tại các Quyết định công bố TTHC của BHXH Việt Nam hiện hành; không được yêu cầu thêm hồ sơ ngoài quy định.

Hai là, việc xác thực danh tính cá nhân áp dụng đối với tất cả các trường hợp nộp hồ sơ giải quyết TTHC để giải quyết đúng người, đúng quy định. Thông tin xác thực được tra cứu, khai thác thông qua một trong các hình thức sau:

  • Thông qua chức năng tra cứu thông tin công dân từ Cơ sở dữ liệu Quốc gia về dân cư trên phần mềm Thu và quản lý sổ, thẻ theo hướng dẫn tại Công văn số 1796/CNTT-PM ngày 19/09/2023 của BHXH Việt Nam.
  • Thông qua tài khoản định danh điện tử của công dân được hiển thị trong ứng dụng VneID (trường hợp người dân cung cấp thông tin qua ứng dụng VneID) theo hướng dẫn tại Công văn số 2048/BHXH-VP ngày 05/07/2023 của BHXH Việt Nam về việc sử dụng thông tin, giấy tờ tích hợp trên VneID trong tiếp nhận hồ sơ, trả kết quả giải quyết TTHC.

Sử dụng thiết bị đầu đọc đã được kết nối trực tuyến với Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, bao gồm thiết bị đọc mã QRCode hoặc thiết bị đọc chíp trên thẻ CCCD gắn chip (trường hợp đã được BHXH Việt Nam trang bị thiết bị đọc mã QRCode hoặc thiết bị đọc chíp trên thẻ CCCD gắn chip).

Ba là, đối với trường hợp đã tra cứu thông tin theo các phương thức trên nhưng không có dữ liệu để xác thực, cán bộ tiếp nhận hồ sơ giải quyết TTHC được yêu cầu công dân nộp bản sao hoặc xuất trình giấy tờ có giá trị chứng minh thông tin về cư trú: Giấy xác nhận thông tin về cư trú, Giấy thông báo số định danh cá nhân và thông tin công dân trong Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư.

Bốn là, đối với TTHC có yêu cầu nộp hồ sơ tại nơi cư trú nhưng người dân lại nộp hồ sơ tại nơi khác nơi cư trú ghi trên CCCD hoặc Chứng minh nhân dân (còn giá trị sử dụng) thì chỉ yêu cầu các thành phần hồ sơ theo đúng quy định tại các Quyết định công bố TTHC của BHXH Việt Nam hiện hành; xác thực danh tính cá nhân để giải quyết đúng người, đúng quy định.

BHXH Việt Nam cũng yêu cầu BHXH các tỉnh, thành phố có trách nhiệm công khai Văn bản này trên Cổng thông tin của BHXH địa phương và niêm yết tại Bộ phận tiếp nhận hồ sơ và trả kết quả TTHC để thông tin rộng rãi, tạo thuận lợi, đem tới sự hài lòng cho công dân trong việc giải quyết TTHC theo tinh thần chỉ đạo của Chính phủ.

VI. Diện bao phủ BHXH và Bảo hiểm thất nghiệp không ngừng được mở rộng

Sáng 04/12/2023, tại Hội nghị toàn quốc nghiên cứu, học tập, quán triệt Nghị quyết Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII, Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính truyền đạt chuyên đề: Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng chính sách xã hội, đáp ứng yêu cầu sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới.

Thủ tướng Phạm Minh Chính khẳng định, sau 10 năm thực hiện Nghị quyết 15 về một số vấn đề chính sách xã hội giai đoạn 2012 – 2020, chúng ta đã cơ bản đạt được mục tiêu tổng quát đã đề ra. Cụ thể:

Thứ nhất, chính sách ưu đãi, tôn vinh người có công với cách mạng được đặc biệt quan tâm và thực hiện tốt. Đối tượng người có công với cách mạng được mở rộng với chế độ và chính sách ưu đãi phù hợp. Hiện có trên 1,2 triệu người có công và thân nhân đang hưởng chế độ ưu đãi hằng tháng; 98,6% gia đình người có công có mức sống bằng hoặc cao hơn mức sống trung bình trên địa bàn.

Thứ hai, việc bảo đảm an sinh xã hội chuyển từ hỗ trợ nhân đạo sang bảo đảm quyền an sinh của công dân. Số người hưởng trợ giúp xã hội thường xuyên tăng hằng năm và đạt 3,3 triệu người năm 2022. Trong 3 năm phòng, chống dịch Covid-19, đã hỗ trợ với số tiền trên 120.000 tỷ đồng và trên 200.000 tấn gạo hỗ trợ cho trên 68 triệu lượt người dân, người lao động gặp khó khăn.

Nhà nước đóng vai trò chủ đạo, đồng thời huy động, phát huy vai trò quan trọng của doanh nghiệp, các tổ chức xã hội, thị trường và ý chí tự lực, tự cường của người dân. Đã dành nguồn lực khoảng 20% tổng chi ngân sách nhà nước hằng năm cho chính sách xã hội.

Thể chế về thị trường lao động từng bước được hoàn thiện; cơ bản bảo đảm cung cầu lao động. Tỉ lệ thất nghiệp ổn định dưới 3%, thất nghiệp thành thị dưới 4%.

Thứ ba, công tác giảm nghèo đạt kết quả nổi bật; đời sống của người dân ngày càng được cải thiện. Tỉ lệ hộ nghèo từ gần 60% vào năm 1986 giảm xuống còn dưới 3% vào năm 2022. GDP bình quân đầu người tăng từ 86 USD năm 1986 lên 4.110 USD năm 2022. Việt Nam về đích trước thời hạn theo mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ (MDG) và Phát triển bền vững (SDG) của Liên Hợp Quốc; là điểm sáng trong toàn cầu, được nhân dân cả nước và cộng đồng quốc tế ghi nhận, đánh giá cao.

Thứ tư, diện bao phủ BHXH và bảo hiểm thất nghiệp không ngừng được mở rộng. Năm 2022, tỉ lệ tham gia BHXH đạt 38,08% và bảo hiểm thất nghiệp đạt 31,18% lực lượng lao động trong độ tuổi; tỉ lệ tham gia BHXH tự nguyện ngày càng tăng (đến nay đạt 1,46 triệu người)

Thứ năm, người dân tiếp cận ngày càng tốt hơn các dịch vụ xã hội cơ bản. Về giáo dục, trẻ em đi học đúng tuổi cấp tiểu học đạt 99% từ năm 2015, cấp trung học cơ sở đạt trên 95% từ năm 2020.

Năm 2022, 92% người dân tham gia BHYT; 90% trẻ dưới 1 tuổi được tiêm chủng đầy đủ… Về nhà ở, đến năm 2020, đã hỗ trợ chỗ ở cho 648.000 hộ nghèo nông thôn, 323.000 căn nhà cho người nghèo, người có hoàn cảnh khó khăn. Đến năm 2021, 90% người dân nông thôn được sử dụng nước hợp vệ sinh.

Về tiếp cận thông tin, năm 2016, 100% xã miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới và hải đảo được phủ sóng phát thanh và truyền hình mặt đất; đến năm 2020, 100% các xã có đài truyền thanh…

Thủ tướng cho biết sau 10 năm thực hiện Nghị quyết 15, chúng ta cơ bản đã đạt được mục tiêu tổng quát đã đề ra; tuy nhiên vẫn còn những hạn chế, bất cập cần tập trung khắc phục, giải quyết trong thời gian sớm nhất. Cùng với đó, yêu cầu đổi mới và phát triển đất nước trong giai đoạn mới đòi hỏi phải tiếp tục mở rộng, đổi mới và nâng cao chất lượng chính sách xã hội, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao về việc cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của người dân.

Thông tin về những điểm mới, nổi bật của Nghị quyết số 42-NQ/TW, Thủ tướng Chính phủ cho biết:

Nghị quyết chuyển đổi cách tiếp cận từ “bảo đảm và ổn định” sang “ổn định và phát triển”; gắn với quản lý phát triển xã hội bền vững, nâng cao phúc lợi xã hội toàn dân, bảo đảm an sinh xã hội, an ninh con người, an ninh xã hội; kết hợp hài hòa giữa tiếp tục đảm bảo an sinh xã hội và các chính sách xã hội khác để đảm bảo ổn định xã hội. Đồng thời tập trung cho phát triển, tiến bộ xã hội thông qua phát triển con người, phát triển nguồn nhân lực, phát triển tầng lớp trung lưu gắn với quản lý phát triển xã hội bền vững và làm động lực phát triển kinh tế, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Đáng chú ý, Nghị quyết số 42-NQ/TW mở rộng phạm vi ra toàn bộ các nhóm chính sách xã hội cho tất cả các đối tượng trên nguyên tắc bảo đảm tính toàn dân, toàn diện, bao gồm các chính sách về ưu đãi người có công với cách mạng; lao động, việc làm, phát triển nguồn nhân lực; đảm bảo an sinh xã hội (trụ cột là BHXH, BHYT, bảo hiểm thất nghiệp, trợ giúp xã hội, giảm nghèo); nâng cao phúc lợi xã hội và đảm bảo tiếp cận dịch vụ xã hội (về y tế, giáo dục, nhà ở, văn hóa, nước sạch, vệ sinh môi trường, thông tin); nhóm yếu thế, người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số, người có hoàn cảnh khó khăn ở vùng sâu, vùng xa.

Nghị quyết số 42-NQ/TW đổi mới, nâng cao chất lượng chính sách xã hội theo hướng toàn diện, hiện đại, bao trùm, bền vững. Chính sách xã hội phải đặt trong tổng thể quản lý phát triển xã hội bền vững. Giải quyết hài hòa các quan hệ xã hội, chăm lo con người và vì con người; tăng trưởng kinh tế gắn với bảo đảm chính sách xã hội; Đổi mới công tác quản lý Nhà nước; tăng cường phân cấp, phân quyền; bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, giám sát của các cơ quan dân cử, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị – xã hội và nhân dân; động viên sự tham gia tích cực của nhân dân, doanh nghiệp; khơi dậy khát vọng phát triển, ý chí tự lực, tự cường, phát huy truyền thống, tinh thần đại đoàn kết toàn dân tộc.

Về mục tiêu tổng quát đến năm 2030, Nghị quyết số 42-NQ/TW xác định rõ việc xây dựng hệ thống chính sách xã hội theo hướng bền vững, tiến bộ và công bằng; hoàn thiện chính sách an sinh xã hội đa dạng, đa tầng, toàn diện, hiện đại, bao trùm, bền vững; phát triển thị trường lao động linh hoạt, hiệu quả, hội nhập quốc tế. Nghị quyết đưa ra 37 chỉ tiêu cụ thể đến năm 2030. Xác định tầm nhìn đến năm 2045, hệ thống chính sách xã hội phát triển toàn diện, bền vững, tiến bộ và công bằng, bảo đảm an sinh và phúc lợi xã hội cho nhân dân; nằm trong nhóm quốc gia có chỉ số phát triển con người (HDI) cao trên thế giới.

Nghị quyết số 42-NQ/TW đưa ra hệ thống 9 nhóm giải pháp đồng bộ, toàn diện trên tất cả các lĩnh vực về chính sách xã hội bao gồm: Nâng cao nhận thức, hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước; chính sách ưu đãi người có công với cách mạng; thị trường lao động, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; hệ thống an sinh xã hội; nâng cao phúc lợi xã hội toàn dân; cung cấp dịch vụ xã hội; hợp tác quốc tế; tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, phát huy vai trò của các cơ quan dân cử, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị – xã hội, hội quần chúng.

Những điểm đổi mới trong tổ chức thực hiện Nghị quyết số 42-NQ/TW là:

  • Bộ Chính trị ban hành kế hoạch thực hiện Nghị quyết và lãnh đạo, chỉ đạo triển khai đồng bộ, kịp thời.
  • Các tỉnh ủy, thành ủy; các ban đảng, ban cán sự đảng, đảng đoàn, đảng ủy trực thuộc Trung ương nghiên cứu, quán triệt và xây dựng chương trình hành động, kế hoạch thực hiện Nghị quyết; định kỳ kiểm tra, đánh giá việc thực hiện.
  • Ban Tuyên giáo Trung ương chủ trì tổ chức hướng dẫn việc nghiên cứu, học tập và quán triệt tuyên truyền sâu rộng về Nghị quyết.
  • Ban Kinh tế Trung ương chủ trì thường xuyên theo dõi, giám sát, kiểm tra, đôn đốc việc triển khai thực hiện Nghị quyết; định kỳ sơ kết, tổng kết, báo cáo Bộ Chính trị, Ban Bí thư kết quả thực hiện Nghị quyết.

Về một số điểm trọng tâm, cần lưu ý trong Nghị quyết số 42-NQ/TW:

  • Thủ tướng nhấn mạnh việc tập trung xây dựng và phát triển thị trường lao động linh hoạt, đa dạng, hiệu quả, bền vững và hội nhập; bảo đảm mọi người dân được tiếp cận, thụ hưởng các dịch vụ xã hội cơ bản (giáo dục, y tế, văn hóa, thông tin, nhà ở, nước sạch, vệ sinh môi trường).
  • Về xây dựng nhà ở xã hội, Đề án xây dựng ít nhất 1 triệu căn nhà ở xã hội đến năm 2030; xóa bỏ nhà tạm, nhà dột nát cho hộ nghèo, cận nghèo, người bị ảnh hưởng bởi thiên tai… Đồng thời, xây dựng Khung quốc gia về thích ứng già hóa dân số và điều chỉnh tỷ suất sinh thay thế; phấn đấu Việt Nam là quốc gia tiên phong trong Chương trình thúc đẩy toàn cầu về việc làm và an sinh xã hội hướng đến chuyển đổi công bằng theo sáng kiến của Liên hợp quốc và Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO).

VII. Liên kết Cổng TTĐT của BHXH các tỉnh, thành phố với Cổng TTĐT BHXH Việt Nam phiên bản tiếng Anh

BHXH Việt Nam đã ban hành Công văn số 4315/BHXH-HTQT thông báo về việc liên kết Cổng Thông tin điện tử (TTĐT) của BHXH các tỉnh, thành phố với Cổng TTĐT BHXH Việt Nam phiên bản tiếng Anh.

Thực hiện Kế hoạch số 168/KH-BHXH ngày 18/01/2023 của BHXH Việt Nam về hoạt động đối ngoại của ngành BHXH Việt Nam năm 2023 và Quyết định số 483/QĐ-BHXH ngày 27/03/2023 về Chương trình công tác trọng tâm năm 2023 của ngành BHXH Việt Nam, BHXH Việt Nam đã thực hiện đồng bộ và hoàn thành việc liên kết Cổng TTĐT của BHXH các tỉnh, thành phố với Cổng TTĐT của BHXH Việt Nam phiên bản tiếng Anh. Hiện tại, Cổng TTĐT của BHXH các tỉnh, thành phố đã được liên kết với Cổng TTĐT tiếng Anh của BHXH Việt Nam.

Theo đó, việc truy cập Cổng TTĐT của BHXH Việt Nam phiên bản tiếng Anh từ Cổng TTĐT của BHXH các tỉnh, thành phố gồm 03 bước:

  • Bước 1: Truy cập trang web Cổng TTĐT của BHXH các tỉnh, thành phố.
  • Bước 2: Tại giao diện chính của Cổng TTĐT BHXH các tỉnh, thành phố, để được chuyển tiếp sang Cổng TTĐT của BHXH Việt Nam phiên bản tiếng Anh, bấm vào biểu tượng hình quốc kỳ Vương quốc Anh.
  • Bước 3: Người dùng đã được chuyển tiếp sang Cổng TTĐT của BHXH phiên bản tiếng Anh.

BHXH Việt Nam đề nghị BHXH các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương phổ biến thông tin tới công chức, viên chức và người lao động thuộc đơn vị để tuyên truyền đến các chủ sử dụng lao động và người lao động nước ngoài, các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trên địa bàn tỉnh, thành phố nắm được các quy định và thông tin về chính sách an sinh xã hội của Việt Nam.

VIII. Cảnh báo hình thức lừa đảo: Thông báo số tiền nợ khám chữa bệnh BHYT

Một bệnh nhân tại TP. Hồ Chí Minh nhận được cuộc gọi thông báo nợ tiền khám chữa bệnh BHYT lên đến 29 triệu đồng. Nếu không thanh toán, cơ quan BHXH sẽ gửi hồ sơ lên tòa án.

Cách đây ít ngày, nữ bệnh nhân N.T.T. nhận một cuộc gọi từ số điện thoại lạ. Người gọi nhận là người của cơ quan BHXH thông báo về khoản nợ chi phí khám, chữa bệnh BHYT lên đến 29 triệu đồng. Đối tượng còn cung cấp đầy đủ thông tin cá nhân như số CCCD, mã thẻ BHYT, ngày sinh của bệnh nhân để tăng tính chân thực. Người này yêu cầu người bệnh thanh toán khoản nợ bằng chuyển khoản, nếu không cơ quan BHXH sẽ gửi hồ sơ lên tòa án. Người bệnh từ chối thực hiện yêu cầu trên và báo với Bệnh viện Y học cổ truyền TP.Hồ Chí Minh vì trong năm 2023, bà T. chỉ khám, sử dụng dịch vụ của bệnh viện này và thanh toán đầy đủ.

Đại diện Bệnh viện Y học cổ truyền TP.Hồ Chí Minh cho biết cơ sở này đã tiếp nhận nhiều phản ánh của người dân về những khoản nợ BHYT và nhận trợ cấp BHXH. Sau khi xác minh và điều tra, bệnh viện khẳng định đây là một chiêu thức lừa đảo khá phổ biến hướng tới những người nhẹ dạ cả tin. Bệnh viện Y học cổ truyền TP. Hồ Chí Minh khuyến nghị người dân thường xuyên cập nhật tin tức, nâng cao cảnh giác và báo cho các cơ quan chức năng để được hỗ trợ xử lý khi nhận được các cuộc gọi tương tự.

Về vấn đề này, hiện nay, BHXH Việt Nam và BHXH các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương không thực hiện việc thông báo qua cuộc gọi hay tin nhắn về chi phí khám chữa bệnh BHYT. Người dân khi nhận cuộc gọi hay tin nhắn về nội dung này cần từ chối thực hiện yêu cầu và thông báo cho cơ quan chức năng hoặc cơ quan BHXH gần nhất trên địa bàn để được hỗ trợ, hướng dẫn.

Ngoài ra, người dân có thể tải ứng dụng VssID – BHXH số trên điện thoại để cập nhật những thông tin về thẻ BHYT, quá trình tham gia, thông tin hưởng các chế độ BHXH, lịch sử khám chữa bệnh BHYT.

IX. Ứng dụng công nghệ sinh trắc tại bộ phận “Một cửa” BHXH: Kịp thời phát hiện, hạn chế tình trạng gian lận, giả mạo

Thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, thời gian qua, BHXH Việt Nam đã phối hợp với Bộ Công an triển khai các công nghệ xác thực sinh trắc dựa trên thông tin sinh trắc được tích hợp trên CCCD gắn chíp và trên dữ liệu của Cơ sở dữ liệu Quốc gia về dân cư để hạn chế và ngăn chặn trục lợi khi đóng, hưởng các chế độ BHXH, BHYT, BHTN.

BHXH Việt Nam đã nâng cấp, điều chỉnh Phần mềm Tiếp nhận và quản lý hồ sơ để tích hợp công nghệ xác thực sinh trắc, triển khai xác thực sinh trắc trong tiếp nhận hồ sơ và trả kết quả giải quyết TTHC tại bộ phận “Một cửa” của BHXH tỉnh Bình Dương và BHXH quận Đống Đa, Hà Nội.

Trước đây, cán bộ tại bộ phận “Một cửa” phải tự kiểm tra xem CCCD thật hay giả và không có cơ sở gì để xác định chính xác; tự kiểm tra người xuất trình CCCD và thông tin trên CCCD có phải là một hay không.

Khi triển khai thí điểm xác thực sinh trắc, tại các cơ quan triển khai thí điểm, Văn phòng BHXH tỉnh Bình Dương, và BHXH quận Đống Đa, Hà Nội đã bố trí riêng quầy thực hiện sinh trắc khi người dân đến nộp hồ sơ trực tiếp (hưởng BHXH một lần, cấp lại sổ, điều chỉnh sổ, gộp sổ…).

Quy trình thực hiện như sau:

  • Bước 1: Khi đến nộp hồ sơ thì người dân sẽ được cán bộ Bộ phận “Một cửa” hướng dẫn đến quầy sinh trắc trước khi thực hiện quy trình nộp hồ sơ.
  • Bước 2: Cán bộ tiếp nhận hồ sơ (TNHS) sẽ thực hiện đối chiếu hồ sơ và sinh trắc vân tay với CCCD gắn chip.
  • Bước 3: Kiểm tra kết quả, trường hợp sinh trắc thành công, cán bộ TNHS thực hiện lưu lại thông tin để đảm bảo trong quá trình xử lý hồ sơ và tra cứu hồ sơ sau này, tiếp nhận hồ sơ theo quy định.

Trong quá trình thí điểm, các cơ quan BHXH đã thực hiện sinh trắc cho trên 16.000 người đến nộp hồ sơ, qua đó đã phát hiện 3 trường hợp nghi ngờ sử dụng thẻ CCCD giả để làm hồ sơ hưởng BHXH một lần (tại Bình Dương). BHXH tỉnh Bình Dương đã báo cáo với cơ quan chức năng để thực hiện các bước xem xét, xác minh và xử lý theo thẩm quyền. Đồng thời, BHXH tỉnh cũng đã có văn bản báo cáo BHXH Việt Nam, UBND tỉnh, Công an tỉnh và một số Sở, ngành trong tỉnh theo dõi, chỉ đạo; thông báo rộng rãi đến BHXH các tỉnh quan tâm, lưu ý và cảnh giác trước tình hình giả mạo giấy tờ tùy thân.

Việc triển khai ứng dụng xác thực sinh trắc trong tiếp nhận hồ sơ và trả kết quả có nhiều lợi ích:

  • Giúp người dân giảm tối đa thời gian cung cấp các loại giấy tờ, giúp các thông tin được nhập nhanh chóng, chính xác.
  • Với cơ quan BHXH giúp đảm bảo xác thực được thẻ CCCD thật/giả, xác thực danh tính của người dân khi đến nộp và giải quyết hồ sơ (nhất là các hồ sơ đề nghị cấp lại sổ BHXH, đề nghị giải quyết hưởng BHXH một lần có số tiền chi trả tương đối lớn…); phát hiện kịp thời và hạn chế tình trạng gian lận, giả mạo giấy tờ tùy thân để trục lợi quỹ BHXH, BHYT.

X. BHXH Việt Nam: Quan tâm, chú trọng công tác đảm bảo an ninh, an toàn thông tin mạng

An ninh, an toàn thông tin (ATTT) mạng là trụ cột quan trọng, xuyên suốt để tạo lập niềm tin số và bảo vệ sự phát triển thịnh vượng của đất nước trong kỷ nguyên số, nhằm thực hiện thành công chuyển đổi số quốc gia, một trong những nhiệm vụ trọng tâm và đột phá chiến lược được đề ra tại Đại hội đại biểu toàn quốc Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XIII.

Nhận thức được được vấn đề này, trong thời gian qua BHXH Việt Nam luôn quan tâm, chú trọng đến công tác bảo đảm ATTT mạng như:

Cổng Thông tin điện tử và các website thuộc phạm vi quản lý của ngành BHXH Việt Nam đã được đăng ký và gắn chứng nhận tín nhiệm mạng của đơn vị chuyên trách giám sát an toàn không gian mạng quốc gia thuộc Bộ Thông tin và Truyền thông. Thông tin kết quả từ hệ thống giám sát tín nhiệm mạng cho 75 website thuộc quản lý của BHXH Việt Nam không có phát hiện tấn công thay đổi giao diện, không chứa các liên kết độc hại, bảo đảm tin cậy về ATTT. Chỉ tính riêng trong năm 2023, BHXH Việt Nam đã tiếp nhận cảnh báo 451 lỗ hổng bảo mật ảnh hưởng cao, nghiêm trọng trong các sản phẩm của Microsoft công bố từ chuyên trách giám sát an toàn không gian mạng quốc gia của Bộ Thông tin và Truyền thông. BHXH Việt Nam đã chỉ đạo đơn vị chuyên trách ATTT của Ngành rà soát và xác định các máy chủ có khả năng bị ảnh hưởng tại Trung tâm dữ liệu Ngành thực hiện cập nhật bản vá cho các lỗ hổng bảo mật, đồng thời cập nhật bản vá lên hệ thống quản lý bản vá (Patch Manager) để hướng dẫn các đơn vị trong toàn Ngành kiểm tra, rà soát và cập nhật, bảo đảm ATTT cho hệ thống thông tin của Ngành, góp phần đảm bảo ATTT cho không gian mạng quốc gia.
Ngoài công tác bảo đảm an toàn thông tin trong toàn Ngành, BHXH Việt Nam cũng tích cực tham gia các chiến dịch phát động bởi Cục An toàn thông tin như “Tháng hành động tuyên truyền về nhận diện và phòng chống lửa đảo trực tuyến” hay rà soát các nội dung không phù hợp trên website của cơ quan nhà nước và triển khai sử dụng nền tảng điều phối, ứng cứu xử lý sự cố.

XI. Mục tiêu phát triển BHXH, BHYT đến năm 2030

Ngày 24/11/2023, Ban Chấp hành Trung ương 8 khóa XIII ban hành Nghị quyết số 42-NQ/TW về tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng chính sách xã hội đáp ứng yêu cầu sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới. Nghị đã đặt ra các mục tiêu, trong đó có các mục tiêu và giải pháp phát triển BHXH, BHYT đến năm 2030.

Về mục tiêu tổng quát:

  • Xây dựng hệ thống chính sách xã hội theo hướng bền vững, tiến bộ và công bằng, không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của Nhân dân, góp phần cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
  • Hoàn thiện chính sách an sinh xã hội đa dạng, đa tầng, toàn diện, hiện đại, bao trùm, bền vững; tạo cơ hội cho Nhân dân, nhất là người nghèo, người có hoàn cảnh khó khăn, người sống ở vùng có điều kiện kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản, đặc biệt là về y tế, giáo dục, nhà ở, thông tin.
  • Phát triển thị trường lao động linh hoạt, hiệu quả, hội nhập quốc tế gắn với việc làm bền vững; nâng cao chất lượng quản lý phát triển xã hội gắn với bảo đảm quyền con người, quyền công dân.

Chỉ tiêu về BHXH, BHYT, đến năm 2030 toàn quốc:

  • Một là, 60% lực lượng lao động trong độ tuổi lao động tham gia BHXH và 45% lực lượng lao động trong độ tuổi lao động tham gia bảo hiểm thất nghiệp.
  • Hai là, 60% số người sau độ tuổi nghỉ hưu được hưởng lương hưu, BHXH hằng tháng và trợ cấp hưu trí xã hội.
  • Ba là, trên 95% dân số tham gia BHYT.
  • Bốn là, trên 95% người dân sử dụng dịch vụ chăm sóc ban đầu tại y tế cơ sở được BHYT chi trả.

Về giải pháp:

  • Một là, chú trọng phát triển hệ thống BHXH linh hoạt, đa dạng, đa tầng, hiện đại, hội nhập quốc tế, bao phủ được toàn bộ lực lượng lao động; tiếp tục cải cách, mở rộng hệ thống BHXH, tạo cơ hội tham gia và bảo đảm quyền lợi hợp pháp cho người lao động.
  • Hai là, thực hiện BHXH bắt buộc đối với người lao động và thành viên của các tổ chức kinh tế tập thể làm việc theo hợp đồng, hưởng tiền lương, tiền công theo quy định của pháp luật.
  • Ba là, đổi mới chính sách BHXH tự nguyện, có chính sách hỗ trợ từ ngân sách nhà nước cho nông dân, người nghèo, người thu nhập thấp, lao động khu vực phi chính thức tham gia.
  • Bốn là, tiếp tục mở rộng, nâng cao chất lượng BHYT toàn dân; đa dạng các gói dịch vụ BHYT nhằm góp phần chăm sóc sức khoẻ nhân dân, giảm chi phí người dân chi trả trực tiếp cho dịch vụ y tế.
  • Năm là, nâng cao hiệu lực, hiệu quả thực hiện chính sách BHXH, bảo hiểm thất nghiệp, BHYT; ban hành chỉ số đánh giá mức độ hài lòng của người tham gia; quản lý an toàn, hiệu quả Quỹ BHXH, Quỹ BHYT.
  • Sáu là, sửa đổi chính sách BHXH một lần phù hợp với thực tiễn, gắn với an sinh xã hội. Chính sách bảo hiểm thất nghiệp phải hỗ trợ cho doanh nghiệp trong nâng cao trình độ kỹ năng nghề cho người lao động để duy trì việc làm bền vững; chủ động phòng ngừa, giảm thiểu thất nghiệp; nâng cao hiệu quả tư vấn, giới thiệu việc làm, đào tạo để chuyển đổi nghề nghiệp cho người lao động thất nghiệp.

XII. Hướng dẫn ký hợp đồng khám chữa bệnh BHYT

BHXH Việt Nam ban hành Công văn số 4195/BHXH-CSYT về hướng dẫn ký hợp đồng khám, chữa bệnh BHYT.

Công văn nêu rõ, thực hiện Luật BHYT, Nghị định số 146/2018/ NĐ-CP ngày 17/10/2018 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn biện pháp thi hành một số điều của Luật BHYT và Nghị định số 75/2023/NĐ-CP ngày 19/10/2023 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 146/2028/NĐ-CP, BHXH Việt Nam hướng dẫn BHXH các tỉnh triển khai thực hiện việc ký hợp đồng khám bệnh, chữa bệnh (KCB) BHYT như sau:

  • Thứ nhất, tiếp tục thực hiện việc ký hợp đồng KCB BHYT theo hướng dẫn của BHXH Việt Nam tại Công văn số 4076/BHXH-CSYT ngày 13/12/2021, Công văn số 3794/BHXH-CSYT ngày 12/12/2022 và Quy trình giám định BHYT ban hành kèm theo Quyết định số 3618/QĐ-BHXH ngày 12/12/2022.
  • Thứ hai, yêu cầu Giám đốc BHXH tỉnh đánh giá, thực hiện phân cấp việc ký hợp đồng KCB BHYT cho BHXH cấp huyện theo đúng quy định tại điểm h khoản 4 Điều 6 Quyết định số 2355/QĐ-BHXH ngày 16/09/2022 của Tổng Giám đốc BHXH Việt Nam quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của BHXH địa phương. Xây dựng kế hoạch hướng dẫn, hỗ trợ công tác giám định và thanh, quyết toán chi phí KCB BHYT cho BHXH cấp huyện.
  • Thứ ba, nội dung hợp đồng KCB BHYT theo Mẫu số 7 Phụ lục ban hành kèm theo Nghị định 75/2023/NĐ-CP. BHXH tỉnh thống nhất với cơ sở KCB BHYT bổ sung một số nội dung trong Hợp đồng theo quy định của pháp luật.
  • Thứ tư, đánh giá tính cần thiết của của việc ký hợp đồng KCB BHYT với cơ sở KCB mới dựa trên tình hình KCB BHYT chung trên địa bàn (số cơ sở KCB đã ký hợp đồng KCB BHYT, tình trạng quá tải KCB, khả năng đáp ứng nhu cầu KCB của người có thẻ BHYT, số lượng BHYT tăng…), việc sử dụng dự toán KCB BHYT được giao. Giám đốc BHXH tỉnh chịu trách nhiệm về việc ký hợp đồng KCB BHYT với cơ sở KCB mới.
  • Thứ năm, tổ chức thực hiện hợp đồng KCB BHYT:
    • Chủ động phối hợp với Sở Y tế trong việc: Xác định cơ sở KCB đăng ký KCB BHYT ban đầu các tuyến trên địa bàn tỉnh; Quy định đối tượng, cơ cấu nhóm đối tượng, số lượng người tham gia BHYT đăng ký KCB BHYT ban đầu tại các cơ sở KCB phù hợp với điều kiện thực tế của địa phương và khả năng đáp ứng của cơ sở KCB; Hướng dẫn việc chuyển tuyến KCB BHYT giữa các cơ sở KCB; Hướng dẫn việc đăng ký hoặc thay đổi nơi đăng ký KCB BHYT ban đầu…theo quy định tại Điều 13 và 14 Thông tư số 40/2015/TT-BYT ngày 16/11/2015 của Bộ Y tế quy định đăng ký KCB BHYT ban đầu và chuyển tuyến KCB BHYT và Công văn số 3637/BHXH-CSYT ngày 29/11/2022 của BHXH Việt Nam.
    • Rà soát chặt chẽ hồ sơ ký hợp đồng đảm bảo đầy đủ và đúng quy định: Giấy phép hoạt động, người chịu trách nhiệm chuyên môn của cơ sở KCB, quyết định phân hạng bệnh viện, địa điểm hoạt động của cơ sở KCB, người đăng ký hành nghề KCB,…Trường hợp có thay đổi hoặc hết hiệu lực thì yêu cầu cơ sở KCB bổ sung đầy đủ theo quy định.
    • Làm việc với cơ sở KCB và có Biên bản xác định số giường bệnh, số nhân lực KCB theo yêu cầu tại các cơ sở KCB, đảm bảo theo đúng quy định tại điểm c và d khoản 1 Điều 8 Thông tư số 13/2023/TT-BYT ngày 29/6/2023 của Bộ Y tế quy định khung giá và phương pháp xác định giá dịch vụ KCB theo yêu cầu do cơ sở KCB nhà nước cung cấp.
    • Tăng cường kiểm tra chất lượng phục vụ người bệnh tại các cơ sở KCB theo quy định tại điểm a, khoản 4, Điều 9 Thông tư số 22/2023/TT-BHYT ngày 17/11/2023 của Bộ Y tế. Lưu ý các phòng khám, buồng bệnh phải sử dụng điều hòa phục vụ người bệnh nếu đã được kết cấu trong cơ cấu giá dịch vụ y tế. Đề nghị cơ sở KCB đảm bảo định mức số người làm việc theo đúng quy định tại Điều 3 Thông tư số 03/2023/TT-BYT ngày 17/02/2023 của Bộ Y tế hướng dẫn vị trí việc làm, định mức số lượng người làm việc, cơ cấu viên chức theo chức danh nghề nghiệp trong đơn vị sự nghiệp y tế công lập.

Bạn đang cần tư vấn thiết kế website bán hàng chuyên nghiệp , tham khảo dịch vụ của NKS nhé

NKS - Công ty TNHH Giải pháp Công nghệ Tri Thức Mới

20 năm tư vấn và cung cấp giải pháp xây dựng thương hiệu toàn diện trên Internet

222 Lê Văn Sỹ, Phường 14, Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam

Email: system@nks.vn

Website: https://nks.com.vn

Hotline: 0932030958

Menu